Egypt Israel Oct 2007




Bấm nút "Download Now"
để cài Windows Media Player. 
Windows Media Player 11
Download Now

Windows Media Download Center
 

Hội Nhập Văn Hóa

Bất kỳ sinh vật nào trong thiên nhiên, nếu biết thích ứng với môi trường chung quanh thì dù nhỏ bé yếu ớt cũng có thể sống còn và phát triển. Còn sinh vật nào không thích ứng hay không có khả năng thích ứng, thì dù to lớn mạnh mẽ cũng sẽ khó phát triển và có thể bị thoái hóa.


Tuesday, December 14, 2010

Click to play this Smilebox greeting
Create your own greeting - Powered by Smilebox
Create your own greeting card


Merry Christmas and Happy New Year

Friday, July 01, 2005

XI.- Kết luận

Nguyễn Chính Kết


Tình trạng sút giảm của Kitô giáo

Cuối thiên niên kỷ thứ hai, số người Công giáo đã không tăng lên mà dường như có chiều hướng giảm đi, số người gia nhập ít hơn số người ra khỏi, nhất là tại châu Âu hay tại những nước có đời sống kinh tế cao, kỹ nghệ phát triển. Số người Kitô hữu dường như chỉ gia tăng trong những quốc gia kém phát triển, gặp nhiều khó khăn về kinh tế, an ninh, những nơi dân chúng bị áp bức...

Như thế, có phải Kitô giáo chỉ thích hợp và cần thiết với những người còn đau khổ, thiếu thốn về vật chất, an ninh, hay với những xã hội còn bất công, áp bức, những quốc gia còn kém phát triển, để an ủi và xoa dịu những đau khổ của họ? Nhiều người nghĩ như thế, nên họ tiên đoán rằng sang thiên niên kỷ thứ III, Kitô giáo sẽ trở thành tượng đài lịch sử khi mà tình trạng kém phát triển và đau khổ kia không còn nữa. Có phải như thế chăng?

Kitô giáo có thể suy tàn không?

Ta không nên dựa vào câu Kinh Thánh: «Ta sẽ xây Hội Thánh Ta trên Đá này, và quyền lực Tử Thần cũng không thắng nổi» (1) để rồi cứ an tâm không làm gì cả, chờ Thiên Chúa làm phép lạ cho Giáo Hội tồn tại mãi. Đành rằng đó là lời tiên tri của Đức Giêsu nên lời ấy phải đúng, nhưng nó đúng theo chiều hướng nào?

Lời hứa của Thiên Chúa đối với Abraham: «Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như sao trên trời, cát dưới biển» (2) đã không đúng theo nghĩa đen như ông tưởng, mà đúng theo nghĩa bóng (3). Con cháu trong lời hứa đó không phải theo nghĩa xác thịt, vì nếu theo nghĩa đó thì con cháu ông làm sao đông bằng con cháu cụ tổ Lạc Long Quân của chúng ta?

Giáo Hội tồn tại được là nhờ biết thích ứng

Nhưng dù lời tiên tri của Đức Giêsu đúng theo nghĩa nào, thì nếu Giáo Hội có tồn tại mãi, ắt lý do tự nhiên phải là Giáo Hội biết thích ứng với thế giới. Mà để thích ứng, Giáo Hội phải biết thay đổi. Chấp nhất vào những quan niệm cũ, vào truyền thống hàng mấy ngàn năm của mình, vào những điều mà người xưa cho là không thể sai lầm được... thì sẽ có những trường hợp Giáo Hội không thể thích ứng với nhân loại thời đại mới được. Chính Công Đồng Vatican II đã chủ trương: «Các định chế, luật pháp, những lối suy tư của người xưa truyền lại, không phải lúc nào cũng phù hợp với tình thế hiện tại, do đó (nếu cứ cố chấp theo những điều cũ ấy) sẽ có những xáo trộn trầm trọng trong phương thức và trong cả các tiêu chuẩn hành động» (4).

Cần thay đổi những gì không còn phù hợp

Do đó, tất cả những gì không phù hợp với con người thời đại, cho dù linh thánh đến đâu đi nữa, cũng cần phải thay đổi để thích ứng với nhân loại luôn luôn biến đổi. Đối với các Tông Đồ ngày xưa, còn gì linh thánh hơn Luật Môsê, phép Cắt Bì, là những cái phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa chứ không phải từ con người? Những điều linh thánh ấy đã được lập nên vì con người, hay con người được dựng nên để làm theo những điều linh thánh ấy? Đối với Thiên Chúa, con người, hình ảnh của Ngài, linh thánh hơn, hay những luật lệ Ngài ra cho con người linh thánh hơn? Trong việc cứu độ con người. thì chính con người là mục đích, hay những luật lệ, tín điều, giáo lý, thần học... là mục đích?

Sự thích ứng trong Giáo Hội sơ khai

Thánh Linh đã khiến các Tông Đồ hiểu điều đó, nên các ngài sẵn sàng bãi bỏ những phương tiện không còn phù hợp  cho dù rất linh thánh  để có thể thích ứng với con người, để có thể mở rộng cửa thiên đàng cho mọi người. Chúng ta thấy trong Cựu Ước, Luật Pháp Môsê linh thánh thế nào, và cũng thấy trong Tân Ước, thánh Phaolô đã hạ giá Luật Pháp ấy xuống như thế nào (5). Luật Pháp đó phù hợp với con người của Cựu Ước, nhưng không phù hợp với con người của Tân Ước (6), do đó phải bãi bỏ.

Giáo Hội đã thích ứng thế nào?

Lề lối tư tưởng, quan niệm, chủ trương, lẽ sống, nếp sinh hoạt, nhu cầu tâm linh và thể chất, khuynh hướng... của người thời đại ngày nay rất khác với người thời xưa. Nếu Giáo Hội vẫn cứ theo đường lối cũ, phương pháp cũ, nếp cũ, thì Giáo Hội sẽ trở thành lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu của con người thời đại mới. Số người bỏ đạo ngày càng tăng buộc Giáo Hội phải suy nghĩ về cách thức mình đã thích ứng với con người thời đại như thế nào, nếu Giáo Hội muốn chu toàn nhiệm vụ mà Chúa Kitô đã ủy thác cho mình.

Thay đổi không phải là chuyện dễ dàng

Nếu trong quá khứ, Giáo Hội thích ứng kịp thời thì Giáo Hội ngày nay chỉ cần thay đổi chút ít là theo kịp thời đại mới. Nếu không thích ứng kịp thời mà bị thế giới bỏ rơi quá xa, thì Giáo Hội sẽ phải thay đổi rất nhiều, và đương nhiên những người có đầu óc bảo thủ không thể chấp nhận được... Tuy nhiên, thay đổi cũng không phải là chuyện dễ mà là chuyện đầy phức tạp. Nếu Giáo Hội thay đổi để phù hợp với thời đại thì Giáo Hội lại trở nên không phù hợp với một số người bảo thủ không muốn thích ứng với thời đại. Do đó, muốn thay đổi, Giáo Hội luôn luôn phải chấp nhận chống đối.

Những nguyên tắc để thay đổi

Trước khi bước vào thiên niên kỷ thứ ba, để thích ứng với con người thời đại ấy một cách sáng suốt, ta nên khách quan xét xem những gì không thể thay đổi cần phải giữ lại, những gì có thể thay đổi, và những gì cần phải thay đổi, để Giáo Hội có thể tồn tại và phát triển.

Vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc con người

Điều quan trọng nhất mà chúng ta cần phải nắm vững, đó là vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc con người. Đó là chính là mục đích hai mặt mà cả Thiên Chúa lẫn con người đều nhắm đến và quyết tâm thực hiện. Đối với Thiên Chúa thì vinh quang của Ngài chính là hạnh phúc của con người (7), và đối với con người thì hạnh phúc chính là làm vinh danh Thiên Chúa. Tất cả mọi phương tiện Chúa dùng hay con người dùng đều không thể quan trọng bằng chính mục đích Chúa hay con người nhắm tới. Mục đích thì không thay đổi, nhưng phương tiện thì có thể thay đổi và cần phải thay đổi tùy theo từng thời điểm để có thể đạt được mục đích (8).

Phải thay đổi vì chính con người hay thay đổi

Như vậy, việc cứu độ con người là mục đích của Thiên Chúa thì không thay đổi, nhưng phương tiện Ngài dùng để cứu độ thì thay đổi, vì chính con người thay đổi. Con người thay đổi về đủ mọi phương diện, nên không có phương diện nào có thể áp dụng mãi mãi thích hợp cho họ cả. Cũng như bệnh nhân thay đổi căn bệnh của mình theo thời gian, khi nhẹ khi nặng, khi đau cơ quan này lúc đau cơ quan khác, nên không thể cứ dùng một toa thuốc uống hoài từ đầu đến cuối mà hết bệnh. Phải thay đổi thuốc tùy theo từng thời điểm. Hay như một học sinh trình độ ngày một cao, không thể có bài học nào thích hợp để cứ học hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Phải thay đổi bài học mỗi ngày theo trình độ mỗi ngày mỗi thay đổi.

Ngoại trừ Thiên Chúa, mọi sự đều thay đổi

Đương nhiên cũng có những phương tiện ít thay đổi hay không thay đổi ứng với một số những mục đích ít thay đổi hay không thay đổi nơi con người. Nhưng trên lý thuyết, ngoài Thiên Chúa ra, chẳng có gì là bất biến, là không thay đổi. Ta thấy, trong Cựu Ước, nhiều luật lệ chính Thiên Chúa ra cho con người (như luật cắt bì, v.v...) mà người Do Thái coi như linh thánh, không bao giờ có thể thay đổi được, nhưng theo thời gian, luật đó đã phải thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của con người. Luật Chúa còn phải thích ứng với con người, huống gì những điều mà con người căn cứ trên Luật Chúa, Lời Chúa để áp dụng cho nhau.

Mọi phương tiện giống như chiếc đò qua sông

Các phương tiện đều giống như chiếc đò để chở người qua sông. Khi đã qua được sông, đò không còn thích hợp nữa, phải dùng phương tiện khác. Kẻ cố chấp không chịu rời đò, hay đòi vác đò đi theo, thì lúc đó đò trở thành vật cản trở cho cuộc hành trình chứ không còn có lợi nữa. Tất cả mọi phương tiện đều có thời của nó, không có phương tiện nào vĩnh cửu cả.

Vì thế, điều quan trọng là nhận ra lúc nào nó đắc thời và lúc nào nó lỗi thời. Khi một phương tiện đắc thời đang hiện hành, người ta thường coi nó như vĩnh cửu, tuyệt đối, để nó trở nên hữu hiệu hơn. Khi nó đã lỗi thời, người ta phải bỏ nó đi và thay bằng phương tiện khác, lúc đó người ta thường phải nêu ra những khuyết điểm, những hạn chế của nó (9).

Luật hiện nay của chúng ta có thể bị lỗi thời?

Nếp sống, lối suy nghĩ, quan niệm, nhu cầu, sở thích... của con người thời đại thay đổi rất nhiều so với con người thế kỷ trước, và con người thế kỷ sau sẽ còn thay đổi nhiều hơn nữa so với con người thế kỷ này. Muốn cứu độ họ, chúng ta cũng phải thay đổi cùng với họ. Ngày nay, chúng ta không còn áp dụng luật Môsê như dân Do Thái cách đây 2.000  3.000 năm, mặc dù thời đó họ coi bộ luật này như tuyệt đối, linh thánh, không thể thay đổi. Một số điều trong luật đó đã trở nên tức cười đối với não trạng của chúng ta hiện nay.

Nếu luật Môsê đã bị lỗi thời như thế, thì liệu những luật lệ chúng ta đang theo hiện nay có thể không bị lỗi thời chăng? Liệu chúng còn thích hợp với những người thế kỷ sau, thiên niên kỷ sau không? Thái độ cố chấp giữ khư khư những nguyên tắc cũ có chính đáng không? Tại sao ngày xưa phải theo luật Môsê mà ngày nay không phải theo nữa? Khi phải thay đổi từ luật Môsê qua luật mới, có bao nhiêu người chống đối, phản kháng lại? Phản kháng như thế có chính đáng không? Lý do khiến họ phản kháng là gì? Trả lời những câu hỏi đó sẽ giúp ta có thái độ thích hợp hơn đối với luật hiện tại.

Hành động nên vì con người hay vì lề luật?

Xét thái độ của Đức Giêsu, ta thấy Ngài hành động vì con người chứ không vì lề luật hay vì nguyên tắc. Đành rằng lề luật được đặt ra để phục vụ con người, nhưng khi áp dụng luật trong những trường hợp cụ thể, người ta thường có khuynh hướng vị luật hơn là vị con người, bất chấp những trường hợp đặc biệt mà trong đó lề luật đi ngược lại con người. Đức Kitô không chấp nhận thái độ thiếu thích ứng như thế. Luật Môsê không cho phép chữa bệnh ngày Sabát, nhưng trước nhu cầu của bệnh nhân: bị mù mắt (10), bất toại (11), teo tay (12), v.v..., Ngài vẫn chữa bệnh cho họ bất chấp lề luật.

Mục đích quan trọng hơn phương tiện

Tại sao? Vì đối với Thiên Chúa, và đúng ra đối với cả chúng ta nữa, con người quan trọng hơn tất cả những phương tiện dùng để cứu độ con người, hạnh phúc con người quan trọng hơn những phương tiện giúp con người hạnh phúc. Khi có xung đột giữa mục đích và phương tiện, thì phải hy sinh phương tiện cho mục đích, chứ không ngược lại. Do đó, chúng ta không nên nhân danh những luật lệ mà chúng ta «phong thần» hay tuyệt đối hóa lên, để hy sinh chính con người hay chính hạnh phúc của con người. Chúng ta dễ bị thôi miên bởi những luật lệ do chính chúng ta «phong thần» lên, khiến chúng ta chỉ nhìn thấy luật lệ và nguyên tắc, mà không thấy những nhu cầu cụ thể của con người.

Đừng quá cứng rắn với những nguyên tắc

Nếu chúng ta quá cứng rắn trong việc áp dụng nguyên tắc, dần dần người ta sẽ cảm thấy đạo mà chúng ta rao giảng trở thành một gánh nặng cho lương tâm, không đáp ứng được những nhu cầu khẩn thiết của cuộc sống. Lúc đó họ sẽ bỏ chúng ta, và chúng ta cũng không thể ảnh hưởng trên họ, không giúp ích hay cứu rỗi họ được, vì họ không thèm nghe chúng ta nữa. Thật vậy, chúng ta chỉ cứu giúp được họ bao lâu họ còn tin và nghe chúng ta.

Nhiều trường hợp chúng ta phải cứng rắn, nhưng cứng rắn tới một mức độ nào đó thì thích hợp và phải lẽ. Còn cứng rắn tới mức độ làm cho người ta lâm vào thế kẹt một cách không cần thiết thì quả là quá đáng. Sự khôn ngoan giúp ta biết khi nào cần phải mềm dẻo, khi nào cần cứng rắn, khi nào phải chấp vào nguyên tắc, khi nào không nên chấp. Đó chính là khả năng thích ứng một cách hợp lý vào từng trường hợp cụ thể. Việc hội nhập văn hóa đòi hỏi sự khôn ngoan hay sự thích ứng như thế.

Đừng hy sinh mục đích cho phương tiện, cái tùy thuộc cho cái chính yếu

Để cụ thể hóa vấn đề, chúng ta có thể suy nghĩ theo một minh họa.

Một người Cha rất nhân hậu có một đàn con đông đảo, trong đó có những đứa con ngoan, có những đứa hư hỏng, và có những đứa vì xa nhà từ hồi nhỏ nên chưa nhận biết Cha mình. Người Cha nhờ những đứa con ngoan giúp cho những đứa con hư hỏng hoặc chưa nhận biết Cha trở về với cuộc sống tốt đẹp và nhận biết Cha thật của mình. Người con cả được Cha giao quyền điều động anh em trong nhà.

Vì muốn thống nhất anh em thành một khối duy nhất, cùng chủ trương, cùng quan niệm, cùng đường lối hầu dễ dàng thực hiện nhiệm vụ Cha giao phó, nên người anh cả đã bắt tất cả mọi anh em trong nhà phải theo đường hướng mà mình cho là đúng đắn nhất. Biện pháp để thực hiện sự thống nhất ấy thật là cứng rắn: ai không theo sẽ bị trục xuất khỏi gia đình. Kết quả là thay vì thực hiện được sự thống nhất và đoàn kết trong nhà, thì lại xảy ra là: nhiều anh em trong nhà phải lần lượt rời khỏi gia đình, lập thành những phe nhóm độc lập, tuy cùng nhận Cha chung là Cha, nhưng không chịu phục quyền người anh cả. Vì thế, sự chia rẽ trong nhà trở thành tệ hơn lúc chưa có chủ trương thống nhất anh em lại.

Tại sao? Vì người anh cả đã quá đặt nặng phương tiện để thống nhất và đoàn kết gia đình  là chủ trương, đường lối mà mình cho là đúng đắn nhất và đòi buộc anh em phải theo  coi nó quan trọng hơn chính sự thống nhất và đoàn kết trong nhà nữa: thà mất chính sự thống nhất và đoàn kết trong nhà còn hơn là để cho phương tiện dùng để thực hiện sự thống nhất và đoàn kết ấy trở nên vô hiệu. Thế là người anh cả đã lầm lẫn giữa phương tiện và mục đích, lấy phương tiện làm mục đích, nên đã hy sinh mục đích cho phương tiện.

Đối với những anh em xa gia đình từ hồi còn nhỏ, chưa biết Cha đích thực của mình là ai, thì những người con ngoan có nhiệm vụ giới thiệu, trình bày người Cha chung của mình cho họ. Nhưng theo lệnh người anh cả, ai nhận biết Cha đích thực của mình và muốn trở về, thì phải dứt khoát từ bỏ người cha nuôi đã nuôi mình khôn lớn từ trước đến nay mà mình tưởng lầm là Cha mình. Thậm chí có lúc người anh cả còn chủ trương phải coi người cha nuôi đó như kẻ thù nghịch với Cha mình. Ngoài ra, những người trở về còn phải theo những phong tục, tập quán của những anh em trong nhà nữa. Vì thế, nhiều người vì còn tình nghĩa với cha nuôi của mình, lại chưa xác tín được người Cha đích thực của mình, hoặc chưa thể bỏ phong tục tập quán cũ mà mình vẫn thấy là hợp lý để theo phong tục mới, nên đã từ chối việc nhận người Cha đích thực của mình, không cần biết tới hạnh phúc hay việc thừa hưởng tài sản của Cha.

Lần này, người anh cả lại lầm lẫn giữa cái chính yếu và cái phụ tùy. Để cho những chuyện tùy phụ ấy trở thành lý do chính yếu ngăn cản anh em mình về với Cha thì quả là quá đáng: coi cái phụ tùy còn quan trọng hơn cả cái chính yếu. Một người cha nhân từ luôn mong mỏi con cái quay trở về có đòi buộc những đứa con chưa biết mình vừa mới phần nào nhận ra mình những điều kiện như thế không, hay đó chỉ là đòi hỏi của những đứa con «ngoan»?

Thiết tưởng chúng ta cần suy tư nhiều hơn về thái độ của người cha, người con thứ, và nhất là thái độ của người con trưởng trong dụ ngôn «ba cha con» của Chúa Giêsu (13). Người con trưởng tuy ngoan nhưng thiếu hẳn tình thương và lòng bao dung, cả với Cha và với đứa em ruột thịt của mình.

Thích ứng và hội nhập văn hóa cho thời đại mới


Việc hội nhập văn hóa trong quá khứ

Việc hội nhập văn hóa trong công cuộc phúc âm hóa mới ngày nay không còn là việc hội nhập văn hóa vào nơi này hay nơi khác, vào dân tộc này hay dân tộc khác cho bằng vào một thế giới khác.

Trong thiên niên kỷ thứ nhất và nửa thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo hầu như chỉ được gói gọn trong Âu Châu. Sự khác biệt về mặt văn hóa giữa người phúc âm hóa và người được phúc âm hóa không đáng kể, việc hội nhập văn hóa tương đối dễ dàng thế mà lại được đặt nặng. Vì thế, việc phúc âm hóa thành công dễ dàng. Mãi tới giữa thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo mới phát triển mạnh sang các châu khác, chẳng hạn như Á châu. Lần này có sự khác biệt rất lớn về mặt văn hóa giữa người phúc âm hóa và người được phúc âm hóa, việc hội nhập văn hóa tương đối khó hơn trường hợp trước rất nhiều thế mà lại bị coi nhẹ. Vì thế, việc phúc âm hóa đã không thành công bao nhiêu.

Hai thiên niên kỷ qua, thế giới thay đổi tương đối chậm, nhưng từ cuối thiên niên kỷ thứ hai trở đi, đặc biệt từ thế kỷ XX, thế giới thay đổi rất nhanh chóng, nhanh một cách lạ thường, khiến cho sự khác biệt về văn hóa, tư tưởng, nếp nghĩ... giữa thế kỷ trước và thế kỷ sau rất rõ ràng. Sự khác biệt về văn hóa giữa nơi này với nơi khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác thời nay không còn đáng kể, vì sự giao lưu giữa các dân tộc đã trở nên dễ dàng do những điều kiện về thông tin và giao thông tân tiến. Có thể nói thế giới đang tiến về một nền văn hóa chung.

Hội nhập văn hóa vào thế giới mới

Nhưng thế giới thay đổi quá nhanh chóng và sâu xa khiến cho văn hóa của thế kỷ sau có thể khác xa với thế kỷ này. Vì thế, vấn đề hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào thế giới thế kỷ mới cũng có rất nhiều khó khăn. Cách phúc âm hóa, cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho thế kỷ sau cần phải thay đổi ít nhiều so với hiện nay để thích ứng với con người thế kỷ sau.

Nếu chúng ta muốn việc phúc âm hóa thế giới thế kỷ sau thành công, chúng ta nên rút kinh nghiệm từ những thành công cũng như thất bại trong việc hội nhập văn hóa của Kitô giáo cũng như của các tôn giáo khác trong hai thiên niên kỷ vừa qua. Thái độ cứng rắn quá đáng, không chịu thích ứng với tình thế đang diễn ra, sẽ là nguyên nhân cho sự thất bại. Và thái độ mềm dẻo, sẵn sàng thay đổi những gì tùy phụ, những gì là phương tiện để thích ứng với con người, sẽ dẫn việc phúc âm hóa đến thành công.

Trong thiên niên kỷ thứ ba, cần đặt nặng việc thích ứng và hội nhập văn hóa hơn

Trước thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo, một thiên niên kỷ đầy dẫy thay đổi, những thay đổi chưa từng thấy, vừa nhanh, vừa sâu, vừa rộng, người Kitô hữu phúc âm hóa không nên đặt nhẹ vấn đề thích ứng để kịp thời với những thay đổi của thế giới. Việc thích ứng và hội nhập văn hóa sẽ trở nên vấn đề «sống còn» của Kitô giáo cũng như của các tôn giáo khác: hoặc thích ứng hoặc sẽ bị đào thải, chỉ có thể chọn một trong hai. Không sẵn sàng thay đổi thì không thể thích ứng được.

Giáo Hội đang sẵn sàng thay đổi

Nhiều quan niệm từ xưa đến nay được coi là đúng rất có thể trở nên lỗi thời trong tương lai. Trong quá khứ đã xảy ra những trường hợp như thế. Do đó, chúng ta cần phải sẵn sàng thay đổi quan niệm cũ của mình theo sự soi dẫn của Thánh Thần. Không có sự soi dẫn của Thánh Thần thì dù bảo thủ hay thay đổi cũng đều không phải là thích ứng.

Qua các tông huấn hay tông thư mới nhất của Đức Gioan-Phaolô II, ta cũng thấy Giáo Hội đang sẵn sàng thay đổi để thích ứng với thế giới tương lai. Giáo Hội đang muốn thay đổi và cần phải thay đổi. Nhưng chắc chắn sẽ có nhiều người chống lại sự thay đổi, không phải họ thiếu thiện chí hay chủ trương chống lại mọi thay đổi, cho bằng họ chưa nhìn ra sự cần thiết và hợp lý của việc phải thay đổi.

Cần xét lại những điều ta vẫn cho là đúng

Nhận ra những điều chưa đúng hay không thích hợp trong quan niệm đang hiện hành (14) không phải luôn luôn dễ dàng. Xét trường hợp của Galilée, ta thấy: khi ông chủ trương trái đất quay chung quanh mặt trời chứ không phải ngược lại, thì ai cũng lấy làm lạ và cho ông là phi lý. Thậm chí cả những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội cũng không nhận ra và còn kết án ông là phá hoại nữa. Phải nhiều thế hệ sau người ta mới thấy điều «phi lý» ấy mới chính là chân lý, và quan niệm đã hiện hành thời đó (15) là sai.

Đó là bài học cho tất cả mọi người: thấy được cái sai trong những điều mình đang cho là đúng không phải chuyện dễ dàng! Vì thế, đôi khi chúng ta cũng phải biết nghi ngờ cả những điều mình đang cho là đúng, là phải, là hợp lý. Và đó là thái độ đúng đắn mà các triết nhân vẫn có, nhờ đó họ mới tránh được những hành động sai lầm mà «chỉ có một số đầu óc vĩ đại thật sự tự do và tràn đầy Thiên Chúa mới có thể tránh thoát được» (16). Do đó, khi muốn chống đối lại một thay đổi nào, nhất là khi sự thay đổi đó lại do một đầu óc vĩ đại khởi xướng, như sự thay đổi mà Đức Gioan-Phaolô II đang chủ trương trong Giáo Hội hiện nay, chúng ta cần phải dè dặt y như người chủ trương thay đổi vậy.

Lầm lỗi quá khứ

Trong việc phúc âm hóa và trong sinh hoạt của Giáo Hội hai thiên niên kỷ qua, một số «con cái» trong Giáo Hội đã gây ra những sai lầm đáng tiếc mà thiết tưởng những «con cái» khác nên rút ra những bài học để tránh trong tương lai. Tất cả những sai lầm ấy, chẳng hạn như «tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi Dân Ngài» hay tội «dùng đến những phương pháp bất khoan dung và thậm chí bạo lực trong khi phụng sự chân lý», v.v... đều chỉ xuất phát từ một mối tội duy nhất: quá cứng rắn, thiếu mềm dẻo và bao dung. Thật vậy, những người phạm những điều sai lầm ấy không phải là những người thiếu thiện chí, thiếu hăng hái nhiệt tình, hay thiếu tình yêu thương (17). Tiếc thay, những đức tính quí giá ấy mà lại đi đôi với sự cứng rắn, thay vì đi chung với sự mềm dẻo, bao dung và thích ứng, thì chúng sẽ tạo thành một tổ hợp những đức tính phá hoại.

Vì thế, trong sinh hoạt của Giáo Hội, nhất là trong việc phúc âm hóa và hội nhập văn hóa, nếu chúng ta chỉ biết cứng rắn áp dụng những nguyên tắc mà ta cho là tuyệt đối, cộng thêm với niềm tự tin rằng mình không thể sai lầm, chắc chắn sẽ làm cho công việc của Giáo Hội đi đến thất bại. Việc phúc âm hóa và hội nhập văn hóa, nhất trong tương lai, rất cần có lòng bao dung để có thể mềm dẻo thích ứng với mọi tình huống, mọi con người.

Phần chú thích

(1) Mt 16,18.

(2) St 22,17.

(3) Nhiều câu Kinh Thánh không thể hiểu theo nghĩa đen vì nếu hiểu theo nghĩa đen thì rõ ràng là trái với thực tế. Chẳng hạn câu: «Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật (luật Môsê) cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành» (Mt 5,18), «Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại» (Ga 2,19), v.v…

(4) Công Đồng Vatican II, MV 7 §2.

(5) Xem Rm 2,17-20.21-27; 3,27; 4,2.4; Gl 6,13; Ep 2,3; Pl 3,9; 3,18; v.v…

(6) X. Gl 3,11.21t; Rm 3,20; Gl 6,12; Pl 3,18…

(7) Quan niệm của thánh Irênê.

(8) Chẳng hạn, để đi đến một nơi nào đó (mục đích không thay đổi), rất nhiều trường hợp ta không thể chỉ dùng một phương tiện duy nhất. Có lúc phải đi bộ, có lúc đi xe, có lúc đi thuyền, và có lúc phải đi máy bay, tùy theo từng đoạn đường phải đi.

(9) Trong thời Cựu Ước, luật Môsê là luật hiện hành, được coi là tuyệt đối, vĩnh cửu, dường như không bao giờ lỗi thời được. Có quan niệm như thế, người ta mới tuân hành một cách triệt để. Nhưng tới thời Tân Ước, luật Môsê không còn thích hợp nữa, thánh Phaolô đã đưa ra những khiếm khuyết của luật đó để người ta bỏ luật đó mà theo luật mới của Chúa Kitô (xem Rm 2,21-27; 3,20; 8,2; Gl 3,11.21; 3,24; 6,12; 6,13; Ep 2,3; Pl 3,18; v.v…).

(10) Ga 9.

(11) Ga 5,1-18.

(12) Mt 12,9-14.

(13) X. Lc 15,11-32.

(14) Mà mình cũng như mọi người hiện đang cho là đúng.

(15) Mà lúc đó ai cũng cho là đúng, là chân lý hiển nhiên.

(16) Tông Thư Tertio Millennio Adveniente của Đức Gioan-Phaolô II, số 35.

(17) Những điều này có thể nói là họ có quá nhiều nữa là khác.


NGUYỄN CHÍNH KẾT

X.- Hội nhập văn hóa theo chiều dọc

Nguyễn Chính Kết


Tình trạng Kitô giáo hiện nay


Số tín hữu Kitô giáo đang sút giảm

Tỷ lệ người Kitô hữu nói chung và người công giáo nói riêng so với dân số hiện nay đang sút giảm và sẽ còn sút giảm, nhất là tại châu Âu trong những thập niên qua. Chẳng hạn tại Pháp, Ý... trước đây là những quốc gia Kitô giáo, tỷ lệ người Kitô hữu so với dân số lên đến 70–80%, thế mà hiện nay số người Kitô hữu sống đạo (1) chỉ còn khoảng 5% trở xuống. Người ta dự đoán, tình trạng Kitô giáo tại các nước Á châu trong tương lai cũng sẽ xảy ra tương tự như tại châu Âu khi các nước này cũng được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và tục hóa như tại châu Âu. Đó là tình trạng báo động khiến tất cả mọi người Kitô hữu phải tự hỏi «tại sao?», đồng thời «phải suy nghĩ lại về cách sống và cách loan báo Tin Mừng của mình» (2).

Nguyên nhân

Nguyên nhân của tình trạng trên có thể do cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo, phong cách sống đạo của người Kitô hữu, và cũng rất có thể do một số đường lối cũ xưa của Giáo Hội... không đáp ứng được nhu cầu tâm linh đã thay đổi của con người thời đại. Tất cả những nguyên nhân kể trên đều là do thiếu thích ứng hoặc thiếu hội nhập văn hóa, không phải chỉ theo chiều ngang, mà chủ yếu là theo chiều dọc.

Hai chiều hội nhập văn hóa

Sự thích ứng và hội nhập văn hóa có hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Chiều ngang là sự thích ứng và hội nhập văn hóa theo không gian, từ nơi này sang nơi khác, từ người thực hiện phúc âm hóa thuộc những dân tộc có nền văn hóa này sang người được phúc âm hóa thuộc những dân tộc có nền văn hóa khác. Chiều dọc là sự thích ứng và hội nhập văn hóa theo thời gian, từ người truyền giáo thuộc thế hệ trước sang người thụ giáo thuộc thế hệ sau. Thích ứng và hội nhập văn hóa chiều ngang chúng ta đã nói đến rất nhiều trong tập sách này. Bây giờ chúng ta nói đến thích ứng và hội nhập văn hóa chiều dọc

Hội nhập văn hóa chiều dọc


Hội nhập văn hóa chiều ngang bớt quan trọng

Hội nhập văn hóa chiều ngang rất cần thiết khi có sự khác biệt lớn giữa văn hóa của những người phúc âm hóa với văn hóa của dân tộc được phúc âm hóa. Nhưng ngày nay, do các phương tiện thông tin và giao thông rất tối tân, các dân tộc qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau càng ngày càng nhiều, nên các dân tộc trên thế giới đang có khuynh hướng tiến tới một nền văn hóa chung. Sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc này với dân tộc khác không còn đáng kể nữa. Do đó, việc hội nhập văn hóa chiều ngang tuy vẫn quan trọng, nhưng không còn quan trọng như xưa nữa.

Thế giới thay đổi nhanh chóng

Ngày nay, thế giới thay đổi hết sức nhanh chóng, và càng ngày càng nhanh hơn. Những khám phá và những phát minh mới của khoa học đã làm thay đổi nếp sống của thế giới, của xã hội, và do đó, cũng làm thay đổi cách quan niệm, lối suy nghĩ và phong cách sống của con người thời đại. Những vấn đề khó khăn mà thế hệ trước phải đối đầu không còn nữa, thế hệ sau phải đối đầu với những khó khăn mới, nhiều khi khác hẳn, đến nỗi người thế hệ trước nhiều khi không hiểu nổi.

Chẳng hạn việc khám phá ra vô số các thiên thể còn lớn hơn mặt trời gấp triệu lần, và thái dương hệ chỉ là một không gian hết sức nhỏ bé trong giải Ngân Hà, và giải Ngân Hà cũng chỉ là một trong hàng tỉ thiên hà của vũ trụ mênh mông, khiến người thuộc thế kỷ 17, 18 về sau không thể nào coi trái đất hay con người trên đó là trung tâm của vũ trụ như người xưa. Việc khám phá ra hai nền toán học phi Euclide (3) đã khiến người ta phải đặt lại vấn đề và phải hiểu cho đúng hơn giá trị cũng như cách áp dụng nguyên lý bất mâu thuẫn của triết học Tây Phương. Nhiều quan niệm ngày xưa được coi là chân lý thì ngày nay chỉ làm cho người thời đại phì cười. Nhiều phát minh hay giả thuyết của khoa học hiện nay đang khiến người ta thay đổi cách nhìn hay quan niệm về thế giới và vạn vật. Chúng ta không nên lãnh đạm với những thay đổi này mà nên quan tâm để có những cách giải thích chân lý thích hợp với não trạng mới của người thời đại.

Sự bùng nổ thông tin, sự bình đẳng nam nữ, việc sinh sản vô tính, thụ thai trong ống nghiệm, hiện tượng đồng tính luyến ái, bệnh sida, nạn ma túy... hoặc những chủ thuyết mới về tự do, dân chủ... đang là những vấn đề mà người thời đại phải đối diện. Chúng có thể gây ra những phản ứng khác nhau nơi người Kitô hữu.

Cần thích ứng với thế hệ sau

Thế giới hiện nay thay đổi thật nhanh chóng, nên não trạng, quan niệm, lề lối suy nghĩ, cách sống của thế hệ sau khác với thế hệ trước khá nhiều. Vì thế, việc truyền giảng Tin Mừng từ thế hệ trước sang thế hệ sau đòi hỏi phải có sự thích nghi, phải hội nhập văn hóa: một thứ thích ứng và hội nhập văn hóa cần mang tính sáng tạo và được thời đại hóa nhiều hơn. Nếu không thích ứng và hội nhập văn hóa như thế, việc rao giảng Tin Mừng sẽ không đem lại kết quả tốt đẹp.

Thích ứng để biến cải

Thích ứng với thế hệ sau không có nghĩa là chiều theo hay làm theo khuynh hướng và ý muốn của họ. Mà là thay đổi cách thức và phương pháp ứng xử của mình sao cho thích hợp với bản chất hay khuynh hướng của họ để đạt được mục đích mình mong muốn, là biến cải họ theo tinh thần Đức Kitô. Tương tự như trong vấn đề giáo dục con cái, nếu muốn thành công, cha mẹ không thể chỉ áp dụng một phương pháp hay cách thức giáo dục duy nhất cho tất cả những đứa con của mình. Mà phải thay đổi phương pháp hay cách thức theo tâm tính, khuynh hướng, trình độ của từng đứa con: đứa đã lớn khác với đứa còn nhỏ, đứa lắm tình cảm khác với đứa thiên lý trí... Không thay đổi cách thức cho phù hợp thì thường bị thất bại.

«Hòa» mà không «đồng»

Thích ứng còn có nghĩa là hòa với họ mà không đồng với họ. Nghĩa là không trở nên giống như bản chất của họ, mà chỉ tìm cách giống như họ ở một vài khía cạnh vô hại nào đó để gần gũi họ, tạo thiện cảm nơi họ. Hãy nghe thánh Phaolô trình bày cách thích ứng của ngài: «Mặc dầu là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do Thái tôi đã trở nên Do Thái để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa mà sống theo luật Đức Kitô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên đủ kiểu đủ loại vì mọi người, để bằng mọi cách cứu lấy một số người» (4).

Thái độ hòa mà không đồng chính là chủ trương của Khoång Tử. Cho dẫu mình không cùng tư tưởng, lập trường với họ, suy tư của mình có thể cao hơn, đúng hơn họ, nhưng mình vẫn hòa mình với họ, sống giống như họ, để giúp đỡ, phục vụ và biến đổi họ. Khoång Tử viết: «Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa». Không hòa với người khác được, đó cũng là dấu chứng mình còn kém cỏi và cao ngạo.

Tính chất của thế hệ trẻ

Vì thế, người Kitô hữu khi loan báo Tin Mừng cần phải tìm hiểu văn hóa của người thời đại, nhất là của những thế hệ sắp tới để loan báo Tin Mừng cho thích hợp. Một linh mục Việt Nam nhận định: «Thế giới ngày nay đề cao tự do, nên rất sợ những định chế có vẻ ép buộc của Giáo Hội. Họ đề cao khoa học kỹ thuật thực nghiệm, nên rất sợ những tín điều mầu nhiệm của Giáo Hội...» (5). Thế hệ trẻ là như thế, và chúng ta đang phải rao giảng Tin Mừng cho họ, trong chính bối cảnh văn hóa ấy.

Thích tự do dân chủ

Từ cuối thế kỷ 18 đến nay, thế giới càng ngày càng đề cao tự do dân chủ và càng không thể chấp nhận những thể chế độc tài, thích dùng quyền bính để áp đặt mọi người. Vì thế, càng ngày càng người ta càng dị ứng với những hình thức áp đặt cho dẫu là vi tế. Ai cũng thích dân chủ hơn là độc tài, thích được đề nghị làm hơn là bị ra lệnh làm. Điều đó ta có thể thấy được cả nơi các em nhỏ: càng ép buộc chúng thì chúng càng có khuynh hướng muốn làm ngược lại.

Do đó, những người có trách nhiệm trong Giáo Hội nên hiểu rõ tâm lý của người thời đại để tránh những hình thức áp đặt chừng nào có thể. Đừng hành động như thời thế giới còn thể chế quân chủ. Chẳng hạn người trên không nên thường xuyên lấy quyền của mình để đơn phương quyết định một điều gì liên quan đến cộng đoàn, hoặc tự mình chỉ định người lãnh đạo một cộng đoàn mà không thèm hỏi ý kiến hay thăm dò ý muốn của những người trong cộng đoàn ấy. Trường hợp này, tốt nhất nên dùng phương thức bình bầu khi có thể được. Đối với người thời đại, ý của bề trên không phải lúc nào cũng được coi là ý Chúa, là sáng suốt, là đúng hơn ý của mọi người như quan niệm của người thời trước. Mà ý Chúa hay sự sáng suốt rất nhiều khi lại được biểu hiện nơi ý kiến chung của bề dưới.

Các Kitô hữu thuộc những thế hệ trước có thể chấp nhận tương đối dễ dàng các định chế mang tính ép buộc trong Giáo Hội. Nhưng ngày nay, việc chấp nhận ấy trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Nếu Giáo Hội vẫn khăng khăng với những định chế được coi là bất di dịch ấy, rất có thể trước con mắt của người thời đại, Giáo Hội trở nên một cơ cấu dị thường, lạc lõng, để rồi cuối cùng người ta đành phải âm thầm tách rời khỏi Giáo Hội như tình trạng Giáo Hội Âu Châu trong những thập niên qua.

Não trạng khoa học thực nghiệm

Ngày nay, khoa học đang phát triển mạnh và chi phối cách suy tư và hành động của con người, nên tinh thần của người thời đại và thế hệ trẻ là đầu óc khoa học thực nghiệm: «Chỉ tin sau khi đã chứng minh» (6), hay chỉ chấp nhận sau khi đã kiểm chứng bằng thực tế. Trình độ dân trí ngày nay cũng cao hơn xưa rất nhiều. Do đó, người ta khó chấp nhận tin những gì không có cơ sở thực tế. Vì thế, khi trình bày sứ điệp cũng như những giáo huấn Kitô giáo, chúng ta nên tránh tính cách giáo điều, mà nên làm nổi bất tính hợp lý hay tất yếu của sứ điệp hay giáo huấn ấy. Những kiểu nói: chúng ta phải thế này, phải thế kia, mà không nói lên được những lý do khiến người ta phải như thế, không còn thúc đẩy người ta thực hiện những điều ấy được nữa.

Phải thay đổi cách sống và cách rao giảng Tin Mừng


Nhu cầu tâm linh con người thay đổi

Đời sống văn hóa của người thời đại, nhất là của các thế hệ trẻ không còn giống như những thế hệ cũ. Vì thế, nhu cầu tâm linh của họ cũng thay đổi. Những nề nếp cũ của Giáo Hội đã từng làm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của những thế hệ cũ, hiện nay có thể không còn thỏa mãn được nhu cầu tâm linh của các thế hệ mới. Mà nếu nhu cầu tâm linh của họ không được thỏa mãn, đương nhiên họ sẽ tự động đi tìm những tổ chức khác có khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ hơn.

Thật vậy, nhu cầu tâm linh của con người mỗi thời đại mỗi thay đổi, tương tự như nhu cầu thể chất. Chẳng hạn cách đây một trăm năm, một người bình dân Việt Nam có thể sẽ rất hãnh diện và cảm thấy mình giầu vì có được một chiếc xe đạp, nhờ nó, anh có thể đi nhanh gấp nhiều lần người đi bộ. Nhưng ngày nay, một người trung bình mà chỉ có một chiếc xe đạp, cho dẫu là đẹp và tiện lợi gấp nhiều lần chiếc xe đạp xưa, thì có thể có mặc cảm là mình nghèo và cảm thấy buồn phiền. Anh ta mong có một chiếc cub hay một chiếc dream.

Có những món hàng cách đây khoảng 10 năm bán chạy như tôm tươi trên thị trường, nhưng chỉ vài ba năm sau, cũng món hàng ấy với chất lượng và hình thức y như cũ bán lại bị ế. Tại sao? vì nhu cầu của con người đã thay đổi, món hàng cũ không còn hợp với nhu cầu và thị hiếu của họ. Nếu nhà sản xuất không chịu thay đổi chất lượng, mẫu mã... họ có thể bị phá sản vì hàng không bán được.

Người thời đại vẫn có nhu cầu tâm linh

Nhu cầu tâm linh có phần nào tương tự. Ngày nay, tại châu Âu, nhiều người đã bỏ Kitô giáo, chắc chắn không phải vì họ không còn nhu cầu tâm linh nữa. Bằng chứng là nhiều khi họ lại chuyển sang một giáo phái khác, hay một tôn giáo khác hy vọng được thỏa mãn nhu cầu đó hơn. Vả lại, con người không chỉ là vật chất mà còn là tâm linh, nên đã là con người thì luôn luôn có cả nhu cầu vật chất lẫn tâm linh. Nhu cầu tâm linh không bao giờ mất đi nơi con người, và theo nguyên lý âm dương, bụng càng lớn thì lưng cũng càng lớn, nên nhu cầu thể chất càng lớn thì nhu cầu tâm linh cũng lớn theo.

Việc nhiều người không còn sống theo Kitô giáo đòi hỏi người Kitô hữu phải nghiêm túc xét lại «mẫu mã» và «chất lượng» những gì mình đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ. Họ bỏ Kitô giáo có thể vì «mẫu mã» và «chất lượng» cũ không còn thích hợp hay không đáp ứng được nhu cầu tâm linh hiện tại của họ.

Cần thay đổi cách nhìn và cách sống đạo

Do đó, người Kitô hữu cần phải thay đổi cách nhìn cũng như cách trình bày Tin Mừng và sứ điệp Kitô giáo để chúng phù hợp hơn với thế hệ trẻ (với những ưu tư, khát vọng, thao thức, não trạng, tâm lý, khuynh hướng, quan niệm, cách suy nghĩ...). Người Kitô hữu cũng cần thay đổi cung cách sống đạo của mình để «có sức thu hút anh em ngoài Kitô giáo và làm phát triển Giáo Hội» hơn (7).

Làm chứng bằng bình an và vui tươi

Do tinh thần khoa học và đầu óc thực nghiệm, người ta chỉ có thể chấp nhận Kitô giáo là hay nhất, tốt nhất và nên theo khi có những chứng cứ cụ thể chứng tỏ điều đó. Chứng cứ lôi cuốn và thuyết phục họ nhất là họ thấy những người Kitô hữu chung quanh thường xuyên sống trong bình an và vui tươi bất chấp nghịch cảnh, đồng thời sống yêu thương nhau và yêu thương mọi người. Phản chứng nhất của Tin Mừng là sự lo lắng, nỗi buồn phiền và cách cư xử thiếu tình thương của người Kitô hữu (8).

Thật vậy, con người thời đại trọng thực tế hơn lý thuyết, khác hẳn với người xưa trọng lý thuyết hơn thực tế. Họ đòi hỏi lý thuyết phải được chứng minh bằng thực tế. Một lý thuyết được gọi là đúng khi áp dụng vào thực tế nó đem lại kết quả tốt, cho dù lý thuyết có nhiều chỗ có vẻ như khó hiểu và không hợp lý. Trái lại, một lý thuyết có vẻ tuyệt vời, lý luận mạch lạc và rất có cơ sở, hứa hẹn một kết quả tốt, nhưng khi áp dụng vào thực tế lại đem lại một kết quả không vừa ý, thì lý thuyết ấy luôn luôn bị coi là chưa đúng.

Thách thức của người thời đại

Vì thế, người Kitô hữu cần xét lại xem cách sống của mình đã chứng tỏ được niềm tự hào của mình là đúng chưa? Người thời đại làm sao có thể chấp nhận được Kitô giáo là tôn giáo đúng nhất, hay nhất, đem lại hạnh phúc nhất, khi mà trước mắt họ, đời sống của người Kitô hữu không tốt hơn, không vui tươi hạnh phúc hơn những người thuộc các tôn giáo khác? khi mà những người rao giảng Kitô giáo đôi khi lại đối xử với nhau không hơn gì những người ngoại đạo? khi mà người Kitô hữu không dấn thân cho tha nhân hơn những người khác?

Thách thức của Mahatma Gandhi xưa nói với người Anh cũng là thách thức của người thời đại nói với chúng ta. Ông rất say mê con người Đức Giêsu Kitô, rất thích tinh thần bát phúc của Ngài, và ông sống một cuộc đời rất phù hợp với Tin Mừng, nhưng ông không theo Kitô giáo và không chấp nhận Kitô giáo là đúng hơn, tốt hơn tôn giáo của ông chỉ vì lối sống của người Kitô hữu mà ông biết không hơn gì những người đồng đạo của ông. Ông thách thức người Anh là những người vừa đem Kitô giáo đến với dân tộc ông, vừa nô lệ hóa dân tộc ông: «Các anh chỉ cần sống đúng như tôn giáo các anh chỉ dạy, thì chắc chắn toàn dân Ấn Độ sẽ trở thành Kitô hữu hết». Sự thách đố này quả là nhức nhối đối với rất nhiều Kitô hữu.

Chứng tỏ bằng thực tế hơn bằng lời nói

Thời nay, người ta đã quá kinh nghiệm về những hàng quảng cáo trên tivi, báo chí hay ngoài đường phố. Mọi quảng cáo đều nói sản phẩm của mình rất tốt, nhưng muốn biết sản phẩm đó có thật sự tốt hay không thì luôn luôn phải kiểm chứng bằng thực tế. Vì thế, để phúc âm hóa, để giới thiệu cho đồng bào chung quanh rằng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo siêu việt, từ trời xuống, và họ nên theo để được cứu độ, tốt nhất chúng ta nên chứng tỏ điều đó bằng lối sống tốt đẹp đầy yêu thương của mình song song với những điều tốt đẹp chúng ta nói về tôn giáo mình. Những lời nói xuông không đi với chứng từ cụ thể không có sức lôi cuốn thế hệ trẻ.

Cần trình bày Đức Kitô sống động


Cần có Đức Kitô sống động trong mình

Để rao giảng và trở nên «nhân chứng sống động của Tin Mừng Đức Kitô, thì phải có Ngài hiện diện cách sống động trong mình» (9). Có như thế, những lời rao giảng của mình mới có sức thu hút mãnh liệt. Thật vậy, chỉ có Đức Kitô mới có sức thu hút, lôi cuốn người khác theo Ngài như chúng ta từng thấy trong các sách Tin Mừng (10). Tự sức chúng ta, hay những bài thuyết giảng của chúng ta không thể làm cho người ta say mê và theo Ngài. Ý thức được điều đó, chúng ta cần phải luôn luôn cảm nghiệm được Đức Kitô hiện diện trong bản thân mình, đồng thời sống kết hợp mật thiết với Ngài. Có cảm nghiệm được như thế, chúng ta mới giúp người khác cảm nghiệm được như chúng ta, và lời rao giảng của chúng ta mới sống động. Nếu không lời rao giảng của chúng ta chỉ giống như lời của con vẹt, hay của người «nhai lại bã mía» (11).

Cần cảm nghiệm Đức Giêsu sống động

Người thời đại hay thế hệ trẻ ngày nay «không chịu nổi những lý thuyết mơ hồ trong một cuộc sống đầy những vấn đề thiết thực phải lo toan. (...). Chúng ta đã biến Giêsu thành một nhân vật trong quá khứ mà quên đi một Giêsu sống động ở hiện tại, một Thiên Chúa hằng sống đang ở giữa chúng ta (x. Ga 1,14) và ở trong chúng ta (x. Gl 2,20)» (12). Việc rao giảng phải được thực hiện làm sao để «người dạy cũng như người học đều cảm nghiệm được Đức Giêsu sống động trong đời mình» (13), một sự hiện diện đầy sức mạnh, quyền năng và tình yêu chan hòa trên đời sống họ.

Đáp ứng lại những đòi hỏi chính đáng do tính thực nghiệm của người thời đại, chúng ta phải biến tôn giáo của mình thành một thực tại cảm nghiệm được. Mà bản chất tôn giáo của chúng ta từ nguyên thủy chính là một thực tại cảm nghiệm được. Trong quá trình phát triển, Kitô giáo đã bị lý thuyết hóa một cách trầm trọng và đánh mất đi bản chất nguyên thủy của nó: một tôn giáo để sống chứ không phải để biết.

Trọng tâm của Kitô giáo là Đức Kitô, một con người hiện nay vẫn đang sống động, sẵn sàng ban sự sống, sức mạnh, quyền năng, tình yêu, trí tuệ, hạnh phúc cho những ai thật sự đến với Ngài, sống với Ngài, thân thiện với Ngài. Đức Kitô đó luôn luôn hiện diện trong bản thân mỗi người. Làm sao cảm nghiệm được Đức Kitô và làm cho người khác cũng cảm nghiệm được như vậy, đó chính là điều mọi Kitô hữu phải làm (14).

Đừng quá chú trọng đến kiến thức, giáo điều

Nhưng rất tiếc trong quá khứ và hiện tại «cách đào tạo tu sĩ, chủng sinh, cũng như cách giảng dạy của các linh mục, giáo lý viên đối với giáo dân đang làm cho người ta khó mà cảm nhận được Đức Giêsu sống động trong mình (...), một Đức Giêsu đang yêu, đang chết và sống lại trong chính con người mình» (15).

Thật vậy, trong quá khứ, chúng ta đã quá chú trọng đến kiến thức hay giáo điều về Thiên Chúa, về Đức Kitô, mà ít chú trọng đến việc cảm nghiệm quyền năng và sự hiện diện sống động của Thiên Chúa hay Đức Kitô nơi bản thân. Cái được gọi là «đức tin» của người Kitô hữu lắm khi chỉ là chấp nhận xuông những kiến thức hay giáo điều ấy. Những thứ ấy cho dẫu có đúng và chính xác đến đâu, cũng không trực tiếp đem lại sự sống và sức mạnh tâm linh cho con người. Chỉ có sự kết hiệp và cảm nghiệm Thiên Chúa thật sự mới đem lại sức sống cho con người (16).

Vì thế, thế giới cần cảm nếm và hưởng thụ chính Thiên Chúa hay Đức Kitô gấp trăm ngàn lần việc hiểu biết những lý thuyết hay giáo điều nói về các Ngài. Nếu những lý thuyết hay giáo điều ấy chỉ là cớ gây chia rẽ trong hàng ngũ các Kitô hữu (17), thì chúng ta không nên coi chúng quá quan trọng (18).

Sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi


Luật Môsê mà cũng phải thay đổi

Để dễ dàng thích ứng với nhu cầu tâm linh của con người thời đại, nhất là của những thế hệ tương lai, chúng ta cần phải sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi. Thời các Tông Đồ, còn gì linh thánh hơn phép cắt bì và luật Môsê, là những cái được coi là xuất phát từ chính Thiên Chúa nên sẽ không bao giờ thay đổi? Thế mà khi chúng không còn thích hợp với con người thời ấy, các Tông Đồ đã mạnh dạn bãi bỏ (19) bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của những Kitô hữu gốc Do Thái (20).

Nếu Giáo Hội không can đảm như các Tông Đồ, dám thay đổi những gì từ xưa đến nay vẫn được coi là linh thánh, là không thể biến đổi, nhưng hiện nay thật sự không còn phù hợp với con người thời đại nữa, thì e rằng Giáo Hội không thể làm tròn sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó.

Luật lệ, tín điều, giáo lý... chỉ là phương tiện

Phép cắt bì và luật Môsê có linh thánh tới đâu thì cũng là để phục vụ con người, chúng không linh thánh bằng chính con người, vì con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (21), là «con cái Thiên Chúa» (22), «được thông phần bản tính của Thiên Chúa» (23). Cũng vậy, mọi giáo lý, tín điều, luật lệ, triết lý, thần học... đều được lập nên vì con người, để phục vụ con người, chứ không ngược lại. Những cái đó chỉ là phương tiện của con người, và con người mới là mục đích của chúng. Chúng phải thích ứng với con người, chứ không phải con người phải thích ứng với chúng.

Vì thế, bao lâu chúng không còn thích hợp hay cản trở con người đến với Chúa và đến với nhau, thì những người có trách nhiệm hướng dẫn lãnh đạo Giáo Hội nên bãi bỏ. Các Tông Đồ đã làm điều đó trước chúng ta và làm gương cho chúng ta.

Cần phân biệt cái không thể thay đổi với cái có thể thay đổi


Cần phân biệt chân lý và cách diễn tả chân lý

Vậy, để thích ứng với con người thời đại mới, nếu cần phải thay đổi, chúng ta nên sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi và chỉ cương quyết giữ lại những gì cốt tủy không thể thay đổi được. Muốn thế, ta cần phải phân biệt những gì không thể thay đổi với những gì có thể thay đổi, những gì là mục đích với những gì là phương tiện, những gì là cốt tủy với những gì tùy phụ. Chẳng hạn, trong giáo huấn của Đức Kitô,  là Ngôi Lời đã nhập thể vào ngôn ngữ và văn hóa của con người  và trong giáo huấn của Giáo Hội, cần phân biệt đâu là yếu tố cốt tủy của sứ điệp, và đâu là yếu tố văn hóa được dùng để diễn tả sứ điệp. Lẫn lộn hai yếu tố đó, ta sẽ không quyết đoán được những gì có thể thay đổi và những gì không thể thay đổi.

Những lời trong Kinh Thánh, không phải lời nào cũng là chân lý nguyên vẹn, trong trạng thái nguyên tuyền của nó. Mỗi câu trong Kinh Thánh luôn luôn được hình thành bởi hai yếu tố: sứ điệp hay chân lý và cách thức diễn tả sứ điệp hay chân lý ấy. Có thể phân biệt nhưng không thể tách biệt hai yếu tố ấy.

Chân lý có thể được diễn tả thành nhiều cách

Tương tự như trong triết học Tây Phương, một vật được cấu tạo bằng chất thể và mô thể, hay trong triết học Đông Phương, bằng thể và tướng, chẳng hạn một chiếc nhẫn vàng, thì vàng là thể hay chất thể, còn nhẫn là tướng hay mô thể. Cũng chính vàng với số lượng đó, người ta có thể làm thành những vật khác nhau: dây chuyền, bông tai, bức tượng nhỏ, v.v... Tất cả những vật đó tuy khác nhau, nhưng đều là miếng vàng đó, chỉ thay hình đổi dạng mà thôi.

Một đoạn Thánh Kinh có thể được phân tích thành chất thể (hay chân lý chưa được định thức, chưa được diễn tả) và mô thể (hay cách thức diễn tả). Tương tự như một câu nói có thể được phân tích thành ý và lời. Cũng một chân lý, một ý tưởng, nhưng có thể được biểu hiện thành nhiều cách thức khác nhau, hay nhiều lời khác nhau. Chân lý hay ý tưởng chỉ là một và không thể thay đổi, nhưng cách thức diễn tả hay lời thì có thể thay đổi nhiều kiểu, tùy thuộc vào cách dùng từ hay quan niệm săn có của mỗi người, hoặc tùy thuộc vào nền văn hóa của mỗi dân tộc. Không nên coi hai yếu tố cấu tạo đó (một bất biến, một thay đổi) là một khối duy nhất không thể thay đổi. Chính vì lầm hai yếu tố này là một, mà trong quá khứ, nhiều nhà thần học mới hiểu những huyền thoại trong Cựu Ước hoàn toàn theo nghĩa đen: Thánh Kinh kể thế nào thì sự thật y như vậy.

Chẳng hạn như trong trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người, sứ điệp cốt tủy là «con người và vũ trụ xuất phát từ Thiên Chúa», còn những chuyện cụ thể như trình tự tạo dựng trong 7 ngày, lấy bùn đất nặn hình người, thổi hơi... là những yếu tố thuộc văn hóa, để thích ứng với trình độ và khuynh hướng của người thời đó. Còn trong ngôn ngữ, một câu hay một đoạn văn thì gồm ý và lời: cùng một ý tưởng, nhưng có thể diễn tả bằng nhiều lời khác nhau, hay nhiều lời khác nhau nhưng cùng diễn tả một ý (24). Cần nắm được ý và không chấp vào lời.

Cần hiểu một cách tổng quát hơn

Những minh họa trên về lời và ý chỉ là những minh họa nghèo nàn cho một thực tế tổng quát, phong phú và rộng lớn hơn. Để dễ hiểu về vấn đề này, ta đặt một giả sử (đương nhiên đã không xảy ra, nhưng vẫn là một khả thể đối với Thiên Chúa): nếu Thiên Chúa chọn dân Ấn Độ làm dân riêng để Ngôi Lời sau này sẽ nhập thể tại Ấn Độ, thì Cựu Ước được viết ra có giống như hiện chúng ta có không? Chắc chắn sẽ khác. Trình thuật hình thành vũ trụ sẽ dùng những yếu tố văn hóa Ấn Độ để diễn tả. Và trong trường hợp đó, nếu chúng ta chỉ hiểu theo nghĩa đen, thì có thể chúng ta sẽ đi đến những kết luận về chân lý rất khác với những kết luận dựa trên Cựu Ước đang có hiện nay. Nhưng nếu loại được những yếu tố văn hóa khác biệt ra, ta sẽ nhận ra ngay hai trình thuật trong hai bản Cựu Ước (một thật, một giả sử) là hai cách diễn tả khác nhau của một chân lý duy nhất: vũ trụ vạn vật xuất phát từ Thiên Chúa.

Đây là một vấn đề rất khó đòi hỏi phải nghiên cứu sâu xa để phân biệt được đâu là những yếu tố thuộc sứ điệp hay chất thể, và đâu là những yếu tố thuộc cách diễn tả (tức văn hóa) hay mô thể. Phân biệt như thế, chúng ta mới an tâm khi phải thay đổi cách diễn tả chân lý để phù hợp với con người thời đại. Và có phân biệt như thế, chúng ta mới dễ nhận ra những cách diễn tả khác với cách của chúng ta trong các tôn giáo khác có thể chỉ nhắm đến một chân lý duy nhất.

Trong thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, xã hội đang thay đổi với tốc độ ngày càng nhanh. Xã hội đang được công nghiệp hóa, kỹ nghệ hóa, đô thị hóa... khiến đời sống được nâng cao hơn nhưng lại bận rộn hơn xưa rất nhiều. Xã hội thay đổi như thế, nên trong việc truyền giáo hóa và phúc âm hóa thế giới, chúng ta cũng cần phải thay đổi những gì có thể thay đổi và được phép thay đổi để thích ứng với nhu cầu tâm linh mới của con người hiện đại. Giáo Hội thời sơ khai đã thích ứng một cách hết sức mềm dẻo với xã hội thời đại ấy, đó là một Giáo Hội trẻ, đầy sức sống.

Nếu một Giáo Hội địa phương không còn khả năng thay đổi để thích ứng với xã hội của mình, đó là dấu hiệu cho thấy Giáo Hội đó đang già cỗi và không còn sức sống. Vì thế, các Giáo Hội địa phương cũng như Giáo Hội toàn cầu cần phải luôn luôn chứng tỏ sự trẻ trung của mình. Tuy nhiên, để giữ sự hiệp thông, sự thay đổi của một Giáo Hội địa phương cần phải tùy thuộc vào tinh thần chung của Giáo Hội toàn cầu. Và Giáo Hội toàn cầu cũng cần phải thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu thay đổi của các Giáo Hội địa phương. Có tương quan hai chiều như thế, sự thích ứng của Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu sẽ không phương hại đến sự hiệp nhất trong Giáo Hội.

Phần chú thích

(1) Nghĩa là còn lui tới nhà thờ, còn lãnh nhận các bí tích.

(2) NGUYỄN NGỌC SƠN, Người Mục Tử Cộng Đồng hướng về tương lai, Tòa Giám mục TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1996, trang 78 (số 68), và trang 78 (số 67).

(3) Xem cước chú số 1 ở trang 200.

(4) 1Cr 9,19-22

(5) Sđd., trang 19.

(6) Qui tắc thứ nhất của Descartes trong Discours de la Méthode.

(7) Sđd., trang 78 (số 67).

(8) Thử đặt mình là một người ngoài Kitô giáo, làm sao ta có thể nghĩ rằng Kitô giáo là một tôn giáo đúng nhất, hay nhất, cứu độ nhất, khi những người Kitô hữu mà ta biết đều sống không hạnh phúc, không tốt hơn, không xả kỷ hơn những người ngoài Kitô giáo? Ta còn có thể dựa vào chứng cớ cụ thể nào nữa?

(9) Sđd., trang 88 (số 82).

(10) Khi Ngài kêu gọi Simon và Anrê (Mc 1,16-18), Giacôbê và Gioan (Mc 1,20), và Lêvi (Mc 2,14), tất cả đều đi theo Ngài ngay tức khắc.

(11) Kiểu nói của Thiền tông Phật giáo để chỉ những người không cảm nghiệm được thực tại, mà chỉ lập lại những lời nói của những người đã cảm nghiệm được. Giống như một người thấy người khác ăn mía khen ngọt, cũng bắt chước nhai lại bã mía người ta vứt ra rồi khen ngọt, cho dù chẳng thấy ngọt ngào chút nào.

(12) Sđd., trang 90 (§3).

(13) Sđd., trang 91 (§1).

(14) Vivekananda có kể lại việc cảm nghiệm Thiên Chúa một cách cụ thể và thật sự của thầy mình là Ramakrishna, một đạo sĩ Ấn giáo. Ông viết: «Tôi lẻn đến gần người và hỏi người câu mà cả đời tôi thường hỏi kẻ khác: “Thưa ông, ông có tin Thượng Đế không”  “Có”, người trả lời.  “Vậy ông có thể chứng minh việc ấy được không?”  “Được”.  “Bằng cách nào?”,  “Vì tôi thấy Thượng Đế như tôi thấy anh bây giờ, chỉ có điều là một cách mãnh liệt hơn nhiều”. Câu trả lời này làm tôi cảm phục ngay. Đây là lần thứ nhất tôi gặp một người dám nói rằng mình đã thấy Thượng Đế, rằng tôn giáo là một sự thực mà ta có thể cảm biết và giác xúc một cách vô cùng cường liệt hơn là ta có thể cảm giác vạn vật» (JOHN YALE, Tôn giáo là gì? Bản dịch của Vương gia Hớn, An Tiêm xb, SàiGòn 1970, trang 21-22). Xem thêm ANTHONY DE MELLO (s.j.), Contact with God, Loyola University Press, Chicago 1991, trang 37-38.

(15) Sđd., trang 89 (số 84).

(16) Tương tự như đối với người đói, thì những lý thuyết tuyệt vời về một loại thức ăn cho dù hết sức bổ dưỡng cũng không làm cho người đó hết đói. Người đói không cần biết nhiều về thức ăn, mà cần ăn chính thức ăn đó.

(17) Trong quá khứ, sự hiệp nhất Giáo Hội đã bị tổn thương rất nhiều chủ yếu vì những tranh luận vô bổ về lý thuyết thần học. Chẳng hạn thật sự sống với Chúa Thánh Thần thì người ta không đặt nặng bằng tranh luận xem Chúa Thánh Thần nhiệm xuất bởi Chúa Cha và Chúa Con hay bởi Chúa Cha qua Chúa Con. Người ta làm như có thể xác định được dứt khoát, như 2+2=4, những thực tại siêu việt mà con người không thể hiểu và kiểm chứng được ấy bằng ngôn ngữ nhị nguyên của con người. Rất tiếc là trong vô số những tranh luận tương tự như thế, việc xác định dứt khoát thế này hay thế kia của trọng tài chẳng đem lại ích lợi bao nhiêu mà cái hại to lớn trước mắt là gây chia rẽ trầm trọng trong Giáo Hội: biết bao nhiêu giáo phái phát sinh ra và tách rời Giáo Hội Mẹ vì những tranh luận vô bổ ấy!

(18) Ở đây không có ý coi thường sự quan trọng của lý thuyết, mà có ý nhấn mạnh đến cảm nghiệm thật sự. Dẫu sao cảm nghiệm vẫn quan trọng hơn lý thuyết rất nhiều.

(19) Chữ «bãi bỏ» này xem ra mâu thuẫn với tinh thần của đoạn Kinh Thánh: «Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ mà để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi cho đến khi mọi sự được hoàn thành» (Mt 5,17-18). Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa đen đoạn Kinh Thánh này, vì trong thực tế, các tông đồ đã bãi bỏ luật Môsê và ngày nay chúng ta không còn phải giữ luật Môsê nữa. Bãi bỏ ở đây là để xây dựng, tương tự như phá nhà cũ đi để xây nên ngôi nhà mới đẹp hơn, lớn hơn. Luật cũ đã được bãi bỏ để thay thế vào đó một Luật mới hoàn chỉnh hơn, thích hợp hơn.

(20) Xem Cv 15,5.

(21) St 1,26.27.

(22) Ga 1,12; 1 Ga 3,1.2.

(23) 2 Pr 1,4.

(24) Một minh họa: Một vị vua muốn tìm hiểu hậu vận của mình thế nào, nên mời những thầy tử vi, chiêm tinh giỏi nhất nước đến. Thầy thứ nhất nói: «Hậu vận của bệ hạ thật đáng buồn: những năm cuối cùng cuộc sống của bệ hạ rất cô đơn, vì bao nhiêu người thân như hoàng hậu, cung phi, và các bạn hữu thân thiết đồng trang lứa với bệ hạ đều chết hết. Chỉ một mình bệ hạ còn sống, nên bệ hạ sống rất cô đơn». Nghe thế, nhà vua rất buồn bực và ra lệnh chém ông thầy thứ nhất đã tiên báo những điềm gở cho mình. Ông thầy thứ hai nói: «Hậu vận của bệ hạ thật tốt đẹp không ai bằng: bệ hạ trường thọ hơn tất cả mọi người đồng thời với bệ hạ. Mọi người đều ca tụng sự trường thọ của bệ hạ và cho rằng Trời hậu đãi bệ hạ hơn tất cả mọi người, cho bệ hạ hưởng vinh hoa phú quí lâu dài hơn ai hết». Nghe xong, nhà vua vui hẳn lên, và ra lệnh thưởng cho ông thầy thứ hai này rất nhiều vàng bạc.


NGUYỄN CHÍNH KẾT

IX.- Hội nhập văn hóa với triết lý Đông và Tây phương

Nguyễn Chính Kết


Kitô giáo đã được Âu hóa


Kitô giáo và triết lý Hy Lạp


Đông Tây khác nhau

Trước khi được truyền bá sang Á châu, Kitô giáo đã được truyền bá khắp đế quốc Rôma, trong đó phần lớn là Âu Châu. Thủ đô của Kitô giáo là Rôma, là trung tâm của châu Âu thời đó. Có thể nói vào thời đó Kitô giáo trở thành tôn giáo của châu Âu.

Do đó, các vị lãnh đạo Giáo Hội, các nhà thần học, các giáo phụ, các nhà chú giải Kinh Thánh, v.v... hầu hết là người Âu Châu. Vì thế, mặc khải và sứ điệp của Đức Kitô đã được suy tư, nghiền gẫm, giải thích và diễn tả theo cung cách văn hóa Âu Châu, trong não trạng và lề lối suy tư của người Âu Châu. Đương nhiên, cung cách đó, lề lối và não trạng đó rất khác với cung cách, lề lối và não trạng của người Á châu.

Biết bao nhiêu học giả đã nghiên cứu và đưa ra những khác biệt rất lớn và sâu rộng giữa Đông và Tây. Khác biệt đến nỗi Ruyard Kipling đã phải nói: «Đông là Đông, Tây là Tây, chẳng bao giờ hai bên thành một được».

Triết lý Hy Lạp phục vụ Kitô giáo

Từ thời Thượng Cổ đến nay, Âu Châu chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa và triết lý Hy Lạp. Tại châu Âu, không có dân tộc nào có được một nền triết lý cao sâu như Hy Lạp. Hy Lạp tuy thua Rôma về mặt chính trị và quân sự, nhưng đã thắng Rôma về văn hóa và triết lý.

Khi giải thích và khai triển mặc khải Kitô giáo, các Kitô hữu thời đó bắt buộc phải dùng một triết lý nào đó làm dụng cụ để khai triển, để làm thần học. Triết lý được quan niệm và được dùng như «nô tỳ cho thần học» (Philosophia ancilla theologi„).

Ở Âu Châu lúc đó, để làm công cụ cho thần học, còn thứ triết lý nào tốt hơn là triết lý của Hy Lạp? Triết lý này đã từng được làm công cụ để phục vụ và khai triển tôn giáo của người Hy Lạp (thờ thần Zeus...), một tôn giáo được cha A. Pieris xếp vào loại «tôn giáo vũ trụ» (religion cosmique), kém xa các tôn giáo lớn như Kitô giáo, Phật giáo, Lão giáo... mà cha xếp vào loại «tôn giáo siêu vũ trụ» (religions métacosmiques).

Các giáo phụ Latinh và Hy Lạp đã «rửa tội» và tinh luyện triết lý này thành một công cụ để khai triển mặc khải và sứ điệp Đức Kitô, một tôn giáo thuộc loại siêu vũ trụ. Thế là cái «ống kính» mà người ta dùng để quan sát các sự vật trần thế bây giờ được đem dùng để khảo sát Thiên Chúa! Biết làm sao được? Còn một dụng cụ nào khác tốt hơn nữa?

Từ đây, tại châu Âu, Kitô giáo được truyền bá tới đâu, thì triết lý này cũng được truyền bá tới đó như một tên đầy tớ đi theo chủ mình. Đương nhiên, triết lý này không còn thuần túy Hy Lạp nữa, vì đã được những triết gia thiên tài như Augustin, Thomas d’Aquin... hoàn chỉnh cho phù hợp hơn với Kitô giáo.

Triết lý Hy Lạp


Một công cụ tốt để suy tư về những thực tại vũ trụ

Văn hóa và văn minh Tây Phương có thể nói là được xây dựng trên nền tảng triết lý Hy Lạp. Cứ xem nền văn minh của Tây Phương hiện nay, với những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật vượt bậc, thì ta có thể thẩm định được giá trị và sự vững chắc của triết lý Hy Lạp như thế nào. Ai cũng phải khâm phục và ngưỡng mộ nền triết lý ấy, và phải nhìn nhận rằng nó là một công cụ rất tốt để giúp con người suy tư, tìm hiểu những đối tượng thuộc vũ trụ, bị chi phối bởi không gian và thời gian. Vì nguyên thủy nó là một công cụ phục vụ cho tôn giáo của người Hy Lạp, một tôn giáo thuộc loại «vũ trụ».

Tuy nhiên, nếu dùng nó cho những đối tượng siêu vũ trụ, không bị thời gian và không gian chi phối, chẳng hạn như Thiên Chúa, hay những thực tại vĩnh cửu, là những thực tại trong các tôn giáo «siêu vũ trụ», thì e rằng ta đã dùng quá khả năng của nó.

Chiều hướng thuần lý của triết lý Hy Lạp

Người Hy Lạp vốn nổi tiếng về những suy tư thuần lý hay suy tư trừu tượng. Mọi việc được suy tư trong đầu óc, hễ thấy hợp với những nguyên tắc của lý trí thì được khẳng định là đúng, đúng một cách tuyệt đối, thậm chí đúng hơn cả những gì ta thấy được nơi thực tế nữa, vì chỉ có lý trí là đáng tin mà thôi, còn giác quan trực tiếp thấy thực tế có thể đánh lừa chúng ta.

Vì thế, chỉ có những suy tư thuần lý là đáng lưu tâm, còn những đối tượng của giác quan là đời sống cụ thể cùng với vũ trụ vạn vật đều không được coi là quan trọng. Nếu có sự mâu thuẫn giữa lý trí và thực tế mắt thấy, thì họ cho lý trí luôn luôn đúng còn mắt có thể thấy sai.

So sánh triết Đông và triết Tây


Để có cái nhìn quân bình hơn


Chủ trương hội nhập văn hóa của Công Đồng Vatican II

Khi Kitô giáo được truyền vào Á châu, các thừa sai Âu Châu đã trình bày Kitô giáo cho người Á châu theo cung cách văn hóa của châu Âu, nghĩa là dùng những ý niệm triết lý Tây Phương để diễn tả. Nhưng sau 400 năm phúc âm hóa, Kitô giáo vẫn còn là một thiểu số, khoảng 8% dân số, và bị coi là một tôn giáo ngoại lai có nguồn gốc Âu Châu.

Nay qua Công Đồng Vatican II, Giáo Hội nhấn mạnh việc lại việc hội nhập văn hóa, nên sứ điệp Kitô giáo cần phải được suy tư và trình bày lại theo cung cách văn hóa Á châu để phù hợp với người Á châu hơn. Do đó, những người có trách nhiệm phúc âm hóa cần phải nắm vững triết lý Á châu để có thể sử dụng nó một cách khéo léo trong việc suy tư và diễn tả sứ điệp Kitô giáo.

Cần quan niệm đúng đắn hơn về triết lý Đông Phương

Nhưng triết lý Á châu dường như vẫn còn là một cái gì xa lạ và bị coi nhẹ nơi rất nhiều Kitô hữu Á châu. Nhiều người có một thành kiến hay một mặc cảm tự ty về văn hóa hay triết lý của Á châu, họ vẫn luôn luôn coi triết Tây là số một, đang khi nhiều triết gia Tây Phương hiện nay cho rằng triết học truyền thống Tây Phương đang bị lung lay từ gốc rễ. Vì thế, chúng ta cần so sánh hai nền triết học đó để có một cái nhìn tương đối quân bình và ít thành kiến hơn

Giữa triết lý Đông Phương và Tây Phương có một số khác biệt căn bản. Trong phần so sánh này, triết lý Tây Phương được nói đến ở đây là triết lý Tây Phương xưa, nghĩa là thứ triết lý ảnh hưởng tới tư tưởng người Tây Phương và Giáo Hội từ thời Thượng Cổ đến thế kỷ 19. Hiện nay, triết lý Tây Phương hiện đại đã thay đổi rất nhiều, không còn những đặc tính cũ mà chúng ta nói trong phần so sánh này.

Đông Phương trọng thực tế, Tây Phương nặng suy tưởng


Khả năng trừu tượng hóa

Nói chung, cách suy tư của người Hy Lạp xưa mang tính cách thuần lý, trừu tượng, dựa trên những khái niệm về sự vật hơn là chính sự vật. Người Tây Phương, nhất là người Hy Lạp xưa, có khuynh hướng khái niệm hóa, trừu tượng hóa sự vật mạnh hơn người Đông Phương. Khả năng trừu tượng hóa đó đánh dấu một bước tiến bộ của loài người, vì khi còn sơ khai, con người chỉ biết nắm sự vật một cách cụ thể, cá biệt, từng cái một, chứ họ chưa biết trừu tượng hóa sự vật để có những ý niệm về chủng loại của sự vật. Cho tới cuối thời đồ đá cũ, người ta còn dùng nhiều tên gọi khác nhau để chỉ những cây, những quả, những chim, những thú vật cụ thể khác nhau, nhưng chưa có những từ để chỉ những khái niệm trừu tượng như loài cây, loài quả, loài thú, loài chim.

Biết trừu tượng hóa sự vật là biết gạt bỏ những nét đặc thù của hiện hữu (màu sắc, hình dạng, tính chất riêng...) để chỉ nắm lấy cái chung nhất của hữu thể. Như vậy, trong khi trừu tượng hóa hữu thể hiện sinh, người ta chỉ nắm bắt cái phóng ảnh, cái bản sao của sự vật, chứ không nắm bắt chính sự vật. Đương nhiên cái phóng ảnh đó sẽ trở thành bất động trong đầu óc người suy tư, đang khi chính sự vật thì luôn luôn thay đổi. Thật vậy, khi gặp lại một người xa cách hàng chục năm, ta mới thấy hình ảnh của người đó trong tâm trí ta không thay đổi gì cả, đang khi chính người đó đã biến đổi nhiều đến nỗi ta phải ngạc nhiên.

Đầu óc thuần lý của người Tây Phương

Điều đó có nghĩa là thế giới của ý niệm và thế giới của sự vật, mỗi thứ có một qui luật riêng, có cách vận hành riêng. Vì thế, khi khởi đầu suy tư, những ý niệm trong đầu ta có thể phù hợp với thực tế, với sự vật. Nhưng sau một quá trình suy tư, kết quả của suy tư có thể khác với kết cục của sự vật ít nhiều, cho dẫu người suy tư có thể theo đúng những nguyên tắc của lý trí trong lập luận của mình.

Do đó, khoa học thời nay vẫn phải dùng suy tư với những khái niệm trừu tượng về sự vật, nhưng vẫn luôn luôn lấy thực tế để kiểm chứng lại, để sửa đổi những sai trệch trong suy tư, trước khi có thể suy tư tiếp tục. Suy tư trừu tượng rất có giá trị, nhưng nó không thể đi một mình mà không gặp nguy hiểm, nó luôn luôn phải được kiểm chứng bằng thực tế mới tránh khỏi trệch đường, mới có được kết quả chắc chắn.

Nhưng người Hy Lạp xưa chỉ tin vào lý trí của mình chứ không tin vào giác quan, họ cho rằng giác quan có thể bị đánh lừa. Mà khốn thay thực tế lại chỉ có thể trực tiếp nắm bắt được bằng giác quan. Do đó, khinh thường giác quan rốt cuộc trở thành khinh thường thực tế. Thế là người Hy Lạp xưa đã coi trọng những suy tư thuần lý hơn là thực tại. Họ coi trọng những nguyên tắc của lý trí hơn là những qui luật khách quan của vũ trụ (1). Nếu có sự mâu thuẫn giữa lý trí suy tưởng và thực tế mắt thấy, thì họ vẫn cho lý trí là đúng. Vì thế, nhiều triết gia đã cho triết học Hy Lạp là một thứ duy tâm luận.

Tính thuần lý, ưa suy tư trừu tượng đó từ thời Parmenides của người Hy Lạp đã ảnh hưởng lên cách suy tư, nhận thức và vũ trụ quan của người Tây Phương và cả các thần học gia Tây Phương nữa.

Đầu óc thực tế của người Đông Phương

Còn người Đông Phương chuộng thực tế hơn, nên ít khuynh hướng trừu tượng hơn người Tây Phương, vì thế, họ không ưa những suy tư thuần lý và trừu tượng cho bằng những kết luận rút ra từ thực tế. Họ cũng biết khái niệm hóa sự vật, nhưng không dừng lại đó. Họ dùng những khái niệm để suy tư, nhưng mọi suy tư đều phải lấy thực tế để kiểm chứng, chứ không để tư tưởng luẩn quẩn mãi trong suy tư.

Những nguyên lý của người Đông Phương như nguyên lý âm dương, nguyên lý đồng nhi dị, nguyên lý phản phục... đều là kết quả của nhiều thời gian quan sát thực tế và suy tư, khác với những nguyên lý của lý trí nơi người Hy Lạp xưa phát xuất từ những suy tư thuần lý, bất chấp thực tế.

Nơi người Đông Phương, những nguyên lý áp dụng cho sự vật hữu hình đều phát xuất từ thực tế. Chỉ những nguyên lý nào áp dụng cho những thực tại siêu việt, không thể kiểm chứng bằng thực tại, hay không thể xuất phát từ sự vật hữu hình thì mới là suy tư thuần lý, chẳng hạn như: «Đạo khả đạo, phi Thường Đạo; Danh khả danh, phi Thường Danh» (Lão Tử)... Những nguyên lý như thế thường có tính phủ định hơn là xác định: phủ nhận những tính chất không thể đúng được, nhưng không dám xác định rõ rệt bằng ngôn ngữ vì ngôn ngữ và kinh nghiệm chung của con người quá nghèo nàn và thấp kém không thể dùng để diễn tả những thực tại siêu nghiệm.

Vũ trụ quan động của Đông Phương và vũ trụ quan tĩnh của Tây Phương


Vũ trụ quan tĩnh của Tây Phương

Người Tây Phương chịu ảnh hưởng văn hóa và triết lý Hy Lạp nặng suy tư thuần lý, coi trọng khái niệm hơn chính sự vật. Mà thế giới của ý niệm là thế giới tĩnh, không có chuyển động hay biến dịch. Thật vậy, khi ta có một ý niệm nào về sự vật, thì ý niệm đó không thay đổi theo thời gian nếu không có những tác động từ bên ngoài vào: như do quan sát sự vật thay đổi mà bổ túc hoặc thay đổi ý niệm ấy. Còn chính sự vật thì luôn luôn thay đổi, dù có thể rất chậm (2).

Khuynh hướng thuần lý của Parmenides đã lôi kéo cả nền văn hóa Hy Lạp và văn hóa Tây Phương vào một vũ trụ quan tĩnh, cho rằng vũ trụ là bất động (3). Những nguyên lý mà họ gọi là «nguyên lý của lý trí» là tiêu biểu cho vũ trụ quan tĩnh này. Vũ trụ quan này đã thống trị nền văn hóa Tây Phương suốt 20 thế kỷ (4).

Vũ trụ quan động của Đông Phương

Còn ở Đông Phương, ngay từ thời Thượng Cổ, từ thời Hoàng Đế, Phục Hy, cổ nhân đã biết quan sát vũ trụ vạn vật và nhận ra tất cả đều thay đổi, biến dịch. Không chỉ nhận ra sự biến dịch trong vũ trụ, mà cổ nhân Đông Phương đã tìm ra những nguyên lý, những quy luật không thay đổi của sự biến dịch ấy. Kết quả của những suy tư, nhận xét về sự biến dịch ấy được hệ thống hóa và ghi chép trong cuốn Kinh Dịch (Y King). Kinh Dịch của Đông Phương không phải là kết quả của những suy tư thuần lý, mà là kết quả của những suy tư căn cứ trên thực tế quan sát được, kiểm chứng được, để rồi rút ra nguyên lý chung theo phương pháp quy nạp (5).

Vũ trụ của người Tây Phương và của người Đông Phương khác nhau ở chỗ: Vũ trụ của người Tây Phương là vũ trụ trong ý niệm, mà đã là ý niệm thì phải tĩnh, không biến đổi, phải tuân theo những nguyên lý của lý trí hơn là những nguyên lý của thực tại. Còn vũ trụ của người Đông Phương là vũ trụ thực tế, biến đổi theo những nguyên lý của nó, độc lập với những nguyên lý của lý trí. Quan niệm này tương tự như của Heraclitus: (6) Với thời gian, không một vật nào đồng nhất với chính nó, lúc nào vạn vật cũng trở nên khác với chính nó: nóng thành lạnh, lạnh thành nóng, mới thành cũ, cũ hư hoại để sinh ra cái mới khác... Vũ trụ luôn luôn biến đổi theo trình tự: «thành, trụ, hoại, không».

Cái Bất Biến: đỉnh cao của vũ trụ quan Đông Phương

Sự biến dịch trong vũ trụ quan Đông Phương là sự biến dịch theo luật biến dịch của vũ trụ. Nghĩa là trong khi tất cả mọi sự đều biến dịch, thì vẫn có một cái không biến dịch làm trụ cột cho tất cả những cái biến dịch. Và cái đỉnh cao nhất của vũ trụ quan Đông Phương chính là cái không hề biến đổi này. Người học Dịch lý tới chỗ thấu suốt thì phải giác ngộ và nắm được Cái Bất Biến này: chính do Cái Bất Biến này mà tất cả mọi cái khác đều biến dịch.

Đương nhiên, Cái Bất Biến và những cái luôn biến dịch không nằm trên cùng một bình diện hiện hữu, hay cùng một cấp độ hiện hữu. Nhưng Cái Bất Biến đó luôn luôn nằm trong tất cả những thực tại biến đổi: không một thực tại biến đổi nào mà không hàm chứa yếu tố bất biến ấy. Cái Bất Biến ấy chính là nền tảng cho tất cả những cái biến đổi.

Nhất nguyên của Đông Phương và nhị nguyên của Tây Phương


Nhị nguyên

Nhị nguyên là tách biệt hai ý niệm đối lập ra khỏi nhau tới mức chúng chỉ đối kháng nhau, mà không có nguyên lý nào tổng hợp chúng thành một thể hay một mối duy nhất. Thí dụ: tâm vật (hay tinh thần và vật chất), trời đất, hữu vô, đầu đuôi, sướng khổ, vinh nhục... Hai thể đối lập đó đấu tranh với nhau để rồi một mất một còn, nghĩa là cái này có thể có mà không cần cái kia, và cái kia càng mất đi thì cái này càng «sống» mạnh. Do quan niệm hai thành phần đối đãi đó vốn tách biệt nhau, nên mới phát sinh những vấn đề như: vật chất có trước hay tinh thần có trước? tại sao có sự ác trên trần gian?...

Nhất nguyên

Còn nhất nguyên là chủ trương có một nguyên lý tổng hợp hai thể đối lập trong một cặp đối đãi thành một thể hay một mối duy nhất. Hai thể đối lập đó chỉ là do sự phân cực của hữu thể, của thực tại. Chẳng hạn bất cứ một vật nào cũng tự phân chia thành trong và ngoài, trên và dưới, trước và sau... Hay như một cục nam châm luôn luôn có đầu nam đầu bắc, hoặc như hễ có dòng điện thì phải có dây nóng dây lạnh, cực âm cực dương...

Hai thể đối lập đó đấu tranh với nhau để cùng tồn tại, vừa đấu tranh với nhau vừa bổ túc lẫn nhau, vừa nương nhau mà tồn tại. Hai thể đó không thể tách rời nhau, vì cái này mất thì cái kia cũng mất theo, cái này sinh thì cái kia cũng cùng sinh ra một lượt. Hai thể không thể tồn tại độc lập, vì cái này tồn tại được là nhờ có cái kia. Nhưng hai thể đối lập đó một khi đã xuất hiện thì tương tranh với nhau, và phải tương tranh như thế thì mới tồn tại, chứ không thể lãnh đạm hay độc lập với nhau. Hai thể đối đãi nhau đó được gọi bằng một tên chung là «lưỡng nghi» hay «âm dương» (7).

Vì vũ trụ quan của Tây Phương ngày xưa là một vũ trụ quan mang tính thuần lý, với những ý niệm trừu tượng, phù hợp với những đòi hỏi của lý trí hay với những nguyên lý của lý trí, hơn là phát xuất từ việc quan sát sự vật, nên không thấy rõ được tương quan giữa hai mặt đối lập của sự vật. Vì không thấy được tương quan bất khả phân ly đó, nên người Tây Phương chỉ nhìn thấy tính cách đối lập, mâu thuẫn của chúng, chứ không thấy chúng hỗ tương, bổ túc và cần thiết lẫn nhau, nhất là không nhận ra chúng là hai mặt của một thể duy nhất. Người Đông Phương gọi tính chất này của hữu thể là «nhất nguyên phân cực» hay «nhất thể lưỡng cực»

Nhất nguyên phân cực

Người Đông Phương nhận thấy vũ trụ luôn luôn biến hóa trong tất cả mọi phạm vi, tình huống, trong thời gian và không gian, sinh ra nhiều sự, nhiều vật, nhiều tình lý, nhiều tính chất khác nhau, trong nhiều mức độ khác nhau. Chẳng hạn:

– Trong phạm vi thời gian, mỗi vật, mỗi biến cố đều xảy ra vào thời điểm riêng của nó, do đó có cái trước có cái sau. Nói cách khác, thời gian được phân cực thành trước và sau.

– Trong phạm vi âm thanh, mỗi âm đều có độ cao khác nhau, có cái trầm, có cái bổng. Vậy âm thanh được phân thành trầm và bổng.

Tương tự như vậy, bất cứ phạm vi nào của vũ trụ cũng được phân thành hai cực khác nhau, mỗi phạm vi có hai tên khác nhau cho hai cực ấy. Các cặp mâu thuẫn gồm hai cực ấy được tổng quát hóa thành âm và dương.

Âm và dương tượng trưng cho những cặp đối đãi nhau trong tất cả mọi phạm vi của vũ trụ vạn vật: đựccái, namnữ, nónglạnh, caothấp, dàingắn, mạnhyếu, thiệnác,... hoặc lý và trí, tâm và vật, tinh thần và thể chất, thiên đàng và địa ngục, đạo và đời, thánh và phàm, thương và ghét, giúp và hại, bản chất và hiện tượng, sống và chết, gốc và ngọn, nhân và quả, tinh và noãn, khí và huyết, thủy và hỏa, thuốc và bệnh... Không một phạm vi nào trong vũ trụ mà không bị phân cực như thế.

Qui ước về Âm Dương:

Mỗi phạm vi đều phân làm hai cực: âm và dương. Nhưng cực nào là âm, cực nào là dương? Người ta thường qui ước rằng:

– cái gì có tính cách tiêu cực, ở trước, có trước, tĩnh, nhỏ, tối, mềm, xấu, kém, nở lớn ra, đi xuống... là âm,

– còn cái gì có tính cách tích cực, ở sau, có sau, động, lớn, sáng, cứng, tốt, hơn, thu nhỏ lại, đi lên... là dương.

Thí dụ, trong phạm vi sáng tối, thì sáng là dương, tối là âm, sáng nhiều là dương so với sáng ít là âm, tối mờ là dương so với tối mịt là âm.

Âm dương luôn luôn đi với nhau:

Không bao giờ âm hay dương lại đi một mình: âm chỉ là âm khi đi với dương, dương chỉ là dương khi đi với âm. Âm mà đi với một cái khác còn âm hơn nó, thì nó trở thành dương; dương mà đi với cái khác còn dương hơn nó thì nó trở thành âm. Do đó, khi có 3 mức độ sáng khác nhau: rất sáng, sáng vừa, và sáng ít, nếu so với tối, thì cả 3 mức sáng đó đều là dương. Nhưng cái sáng vừa sẽ trở thành âm khi đi với cái rất sáng, và trở thành dương khi đi với cái sáng ít.

Sự phân cực âm dương giống như hai đầu của một thanh nam châm: đầu bắc đầu nam. Nếu chặt thanh nam châm ra làm đôi, thì ta không được một thanh bắc một thanh nam, mà cả hai thanh nhỏ ấy đều trở thành những thanh nam châm có hai đầu bắc nam y như thanh nguyên thủy. Tương tự như vậy, một tập thể gồm nhiều người có mức độ giầu nghèo khác nhau, người ta có thể phân tập thể ấy thành hai loại người: giầu và nghèo. Nhưng sau khi chia làm hai tập thể nhỏ như trên, thì mỗi tập thể nhỏ ấy vẫn có thể chia thành hai loại người: giàu và nghèo, hay có nhiều tiền hơn và có ít tiền hơn. Điều đó có nghĩa là: âm dương là tương đối, là so sánh với nhau mà có. Không có một vật nào tự bản chất là dương hay âm cả. Khi nói vật này là âm thì đã giả thiết có vật khác là dương rồi.

Hai quan niệm khác biệt

Đây là một điểm khác biệt giữa Đông và Tây. Nhận thức luận của Tây Phương xưa cho rằng tự bản chất một vật có thể là tốt hay xấu mà không cần phải so sánh hay đối chiếu với vật nào khác. Một vật đã gọi là xấu thì không thể là tốt cho dẫu là so sánh với vật xấu hơn. Nói cách khác, âm là âm mà dương là dương. Nếu đã là âm thì cứ cố định là âm, vì bản chất của nó là âm, chứ không do so sánh với cái khác là dương. Âm và dương, tốt và xấu, sáng và tối... có thể tách biệt nhau hoàn toàn, không chút dính dấp gì với nhau. Nếu có sự chung chạ thì chỉ như đậu đen và đậu trắng trộn chung với nhau, nếu cứ kiên nhẫn xếp riêng hai thứ ra, thì sẽ có lúc đậu trắng và đâu đen hoàn toàn tách biệt. Do đó, nhận thức luận và vũ trụ luận của Tây Phương ngày xưa là nhị nguyên: hai cái đối lập nhau bắt nguồn từ hai thể đối lập.

Còn nhận thức luận và vũ trụ luận của Đông Phương là nhất nguyên: hai cái đối lập là do một thể phân cực ra, và nếu thể ấy bị tách làm hai, thì hai thể mới cũng vẫn có đầy đủ hai cực đối lập như thể nguyên thủy. Điều đó có nghĩa là trong cực này đã có hàm chứa cực kia, nên khi phân làm hai, mỗi thể nhỏ mới có thể có đầy đủ hai cực đối lập được. Vậy là trong âm đã có sẵn dương, và trong dương đã có sẵn âm. «Âm trung hữu dương, dương trung hữu âm» (Kinh Dịch). Âm và dương không thể nào tách biệt được nhau, nghĩa là không bao giờ có tình trạng cô âm hoặc cô dương, thuần âm hoặc thuần dương được. Điều đó thật dễ hiểu, vì khi nào còn có sự khác biệt (8) giữa các phần tử trong một tập thể với nhau, thì tập thể đó ắt nhiên phải phân cực thành âm dương. Âm dương phát sinh là do sự dị biệt về mức độ (9).

Và vì vũ trụ quan của Đông Phương là động biến, nên âm có thể biến thành dương, dương biến thành âm. Sở dĩ như thế là vì trong dương đã có sẵn mầm âm, và trong âm đã có sẵn mầm dương. Cái mầm bên trong ấy chỉ chờ cái bên ngoài yếu đi là phát triển mạnh lên và thay thế cái bên ngoài, và lúc đó, bên trong lại phát sinh một mầm đối lập mới. Đó là luật tiêu tức của âm dương: «âm tiêu dương trưởng, dương tiêu âm trưởng». Vì thế, vũ trụ trở thành một vòng tròn sinh hóa hóa thành mãi mãi, âm dương thay nhau lên ngôi, làm chủ, thay đổi thịnh suy cho nhau, không bao giờ yên một chỗ cả.

Âm Dương và những tính chất của âm dương được tượng trưng và biểu thị bằng Thái Cực Đồ: vòng ngoài cùng tượng trưng cho Vô Cực. Vòng trong tượng trưng cho Thái Cực. Hai hình (giống như con cá) mầu trắng đen tượng trưng cho Lưỡng Nghi: Âm và Dương. Vòng tròn nhỏ mầu trắng tượng trưng cho Thiếu Dương (Dương trong Âm) và vòng tròn nhỏ màu đen tượng trưng cho Thiếu Âm (Âm trong Dương).



Thái cực đồ

«Vô cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi,
Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng sinh Bát Quái,
Bát Quái sinh vạn vật» (Kinh Dịch).

Quan niệm thực tại đơn diện, và quan niệm thực tại đa diện


Thực tại đơn diện

Triết lý và nhận thức luận Tây Phương ngày xưa dựa trên những nguyên lý của lý trí hơn dựa trên thực tại. Theo đó, hữu thể chỉ có thể là một (L’Être est Un). Và nếu hữu thể chỉ có thể là một thì cứ theo đà lý luận đó, hữu thể cũng chỉ có một mặt, không thể nhiều mặt được. Do đó, đối với một hữu thể hay một thực tại, chỉ có một cách nhìn về hữu thể hay thực tại đó là đúng mà thôi, tất cả những cách nhìn nào khác mâu thuẫn với cách nhìn đó phải là sai. Điều đó được phản ảnh trong nguyên lý bất mâu thuẫn (10) và triệt tam (11) của triết lý Tây Phương. Những nguyên lý này đã giả thiết rằng thực tại chỉ có một mặt, vì nếu thực tại mà là đa diện thì những nguyên lý ấy không còn đúng nữa (12). Vì thế, trong nhận thức luận của Tây Phương có câu: «Chân lý chỉ có một» (13).

Do quan niệm này mà người Tây Phương một khi đã thấy mình là đúng, họ đương nhiên cho rằng tất cả những ai quan niệm khác với họ đều sai. Vì theo lý trí, không thể có hai chân lý khác nhau hay mâu thuẫn nhau, hễ cái này đúng ắt nhiên những cái khác với nó phải sai, không thể cùng đúng một lượt (14). Cũng vì quan niệm thực tại đơn diện, «chân lý chỉ có một», mà các triết gia Tây Phương thường có khuynh hướng nghiêng về một mặt của vấn đề, dễ đi đến chủ nghĩa độc đạo (exclusivisme), chỉ có một con đường. Vì thế, triết học Tây Phương dễ phát sinh ra các học thuyết: duy tâm, duy vật, duy linh, duy nghiệm, duy niệm, duy thực, duy hiện tượng, v.v... giản lược tổng thể vào một mặt nào đó của nó.

Và cũng vì lý do đó mà người Tây Phương có khuynh hướng tranh đấu dành chân lý hay phần thắng về mình. Do đó, họ thường xuyên phải tranh đấu với chính bản thân, với tha nhân, với thiên nhiên vạn vật. Từ đó người Tây Phương dễ phát sinh khuynh hướng chiếm đoạt, thống trị, áp đặt... Điều này được biểu hiện trong nghệ thuật kiến trúc của Tây Phương thích dùng những đường gẫy, đường thẳng, những góc nhọn cao vút lên trời, biểu hiện niềm kiêu hãnh, lòng ham muốn chống lại và thống trị thiên nhiên cũng như vạn vật chung quanh.

Thực tại đa diện

Người Đông Phương không chỉ suy tư theo lý trí mà còn căn cứ trên thực tế. Mà trên thực tế có sự vật nào chỉ có một mặt đâu? Mọi sự vật đều có nhiều mặt, ít nhất với ba chiều kích (dàirộngcao) để người ta có thể nhìn chúng với sáu mặt khác nhau: trước, sau, trên, dưới, trái, phải. Sáu mặt ấy ứng với sáu cách nhìn khác nhau, thậm chí có thể mâu thuẫn nhau (15). Thật là buồn cười nếu có ai đặt vấn đề rằng: trong sáu cái nhìn ấy, cái nhìn nào đúng? Và buồn cười hơn nữa nếu có ai nhất quyết rằng trong sáu cái nhìn ấy, chỉ có một cái nhìn  cái nhìn của mình  là đúng, còn năm cái nhìn kia, chiếu theo câu «chân lý chỉ có một», ắt phải sai hết. Sự việc buồn cười trên rất dễ xảy ra nếu người ta chấp nhận nguyên lý bất mâu thuẫn là đúng và quan niệm thực tại chỉ có một mặt.

Khả năng chấp nhận và dung hòa mâu thuẫn

Vì quan niệm thực tại là đa diện, vì không luôn luôn suy nghĩ theo nguyên lý bất mâu thuẫn của Tây Phương (16), nên người Đông Phương chấp nhận mâu thuẫn một cách tương đối dễ dàng hơn. Khi một người nghĩ thế này và thấy người khác nghĩ thế kia ngược hẳn lại với mình, người đó vẫn có thể nghĩ rằng: biết đâu người kia cũng đúng như mình, không kém gì mình. Có thể nói tại châu Á, những khuynh hướng chính trị, tôn giáo, văn hóa khác nhau đôi khi mâu thuẫn nhau vẫn có thể «sống chung hòa bình» với nhau nhiều hay ít. Vì không theo nguyên lý bất mâu thuẫn, người Á Đông không đặt quá nặng vấn đề đúngsai.

Tại châu Á có ba tôn giáo lớn: Khổng, Lão, Phật, và ba luồng tư tưởng lớn ấy đâu phải không có mâu thuẫn. Nhưng không thấy có mấy triết gia Đông Phương, hay những tín đồ thuộc ba tôn giáo ấy đặt vấn đề: đạo nào đúng đạo nào sai. Họ nhận ra rằng ba luồng tư tưởng ấy bổ túc cho nhau nhờ có những điểm mâu thuẫn nhau. Thật vậy, trong vấn đề xã hội chẳng hạn, đạo Nho chủ trương nhập thế, còn đạo Lão chủ trương xuất thế. Hai chủ trương ấy tuy mâu thuẫn nhau nhưng vẫn có thể «sống chung hòa bình» ngay trong một con người. Một học giả Đông Phương nói rằng trong con người một sĩ phu Á Đông, có hình ảnh một ông Khổng và một ông Lão: ông Khổng chi phối hành động, còn ông Lão chi phối tư tưởng.

Sự mềm dẻo trong tư tưởng

Cũng do quan niệm thực tại đơn diện mà những khẳng định của người Tây Phương về thực tại thường rất rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, nhưng mang tính một chiều. Khi nói «điều này tốt» thì bao hàm rằng nó không thể xấu, mà nói «điều này xấu» thì bao hàm rằng nó không thể tốt. Còn những khẳng định người Đông Phương thường không rõ ràng, dứt khoát như thế. Khi nói «điều này tốt» thì người ta ngầm hiểu là nó cũng có những mặt xấu hay không tốt của nó, cũng như khi nói «điều này xấu» thì ngầm bao hàm rằng nó cũng có những mặt tích cực của nó. Quan niệm «không có vật nào thuần âm hay thuần dương» hay «trong dương có âm và trong âm có dương» cũng nói lên tính đa diện của thực tại (17). Do đó, trong tư tưởng, người Tây Phương có tính dứt khoát và cứng rắn, còn người Đông Phương có tính mềm dẻo, mơ hồ, không dứt khoát. Đương nhiên, tính chất nào cũng có những cái hay cái dở của nó.

Khuynh hướng phân tích và tổng hợp của Đông và Tây Phương


Tây Phương thiên về phân tích

Khuynh hướng nhị nguyên và nhận thức luận đơn diện khiến người Tây Phương có đầu óc phân tích, biện biệt mạnh. Hoặc có thể ngược lại: vì có khuynh hướng phân tích biện biệt mạnh mà họ trở nên nhị nguyên. Họ quan niệm bản thân và tha thể hoàn toàn tách biệt nhau, có thể đi đến đối kháng và đấu tranh với nhau. Điều này ảnh hưởng đến cách hiểu và cắt nghĩa Kinh Thánh của người Tây Phương về Thiên Chúa: Thiên Chúa hoàn toàn tách biệt với vũ trụ vạn vật, Thiên Chúa và vũ trụ vạn vật dứt khoát là hai thực thể khác biệt nhau.

Đông Phương thiên về tổng hợp

Khuynh hướng nhất nguyên và nhận thức luận đa diện của Đông Phương khiến họ có đầu óc tổng hợp mạnh. Hoặc có thể ngược lại: vì có khuynh hướng tổng hợp mạnh mà họ trở nên nhất nguyên. Họ tổng hợp bản thân và tha thể thành một thể duy nhất: «vũ trụ vạn vật đồng nhất thể». Do đó, người Đông Phương có khuynh hướng «dĩ hòa vi quý», đề cao hòa bình, thích hài hòa. Họ dễ sống hài hòa với chính mình, với tha nhân, với vạn vật, không có khuynh hướng chiếm đoạt, thống trị và thích áp đặt mạnh như người Tây Phương. Ta thấy các tôn giáo phát triển tại Đông Phương có khuynh hướng tự do, lỏng lẻo, không đặt nặng cơ cấu, ít giáo điều, ít áp đặt, dễ chấp nhận và hài hòa với nhau... Tính hài hòa được thể hiện rất rõ nét trong nghệ thuật: các kiến trúc của Đông Phương thường dùng nhiều đường cong, đường ngang, có tính cách trầm lắng, hòa với vạn vật, đi vào lòng người; các bức họa Đông Phương thường vẽ con người nhỏ bé hòa lẫn với thiên nhiên bao la rộng lớn được vẽ mờ nhạt mịt mù.

Khuynh hướng nhất nguyên này ảnh hưởng đến cách quan niệm và cắt nghĩa của người Đông Phương về Thực Tại Tối Hậu. Thực Tại Tối Hậu và vũ trụ vạn vật là một. Đó chỉ là hai mặt khác biệt nhau – bản thể và hiện tượng, hay thể và tướng – của cùng một thực thể duy nhất (18).

Triết Tây vị triết học, Triết Đông vị nhân sinh


Triết học Tây Phương nhằm thỏa mãn trí tuệ

Triết học Tây Phương trước đây (19) có khuynh hướng suy tư thuần lý, coi việc thỏa mãn lý trí, sự hợp lý, hay sự phù hợp với đòi hỏi của lý trí quan trọng hơn sự phù hợp với thực tế. Vì thế, nó nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của trí tuệ hơn là phục vụ đời sống. Chính vì vậy, triết học trở nên độc lập với cuộc sống, ở bên lề cuộc sống. Do đó, người ta có thể nghĩ một đằng, nhưng sống một đằng. Triết học không có ảnh hưởng nhiều trên đời sống, trên những lãnh vực sinh hoạt của đời sống.

Ta thấy rõ ràng tinh thần của triết học Tây Phương khác hẳn với tinh thần khoa học Tây Phương. Triết học coi trọng những nguyên lý của lý trí, còn khoa học lại coi trọng cách vận hành của sự vật. Triết học và khoa học đôi khi mâu thuẫn nhau. Triết học chỉ có ảnh hưởng quan trọng trong tôn giáo, được tôn giáo dùng làm dụng cụ để diễn tả và khai triển những mặc khải thần linh. Thời Trung Cổ, do ảnh hưởng của tôn giáo quá nặng, khoa học phải chịu sự chi phối của triết học và tôn giáo, nên khoa học không tiến nhanh được. Nhiều nhà khoa học bị triết học và tôn giáo kết án hoặc chế tài khi họ tuyên bố những thành quả khoa học mình khám phá ra vốn đi ngược lại quan điểm của triết học và tôn giáo, như Bruno, Galilée, Mendel... (20)

Triết học Đông Phương gắn liền với đời sống

Ngược lại, người Đông Phương có đầu óc trọng thực tế hơn suy tư thuần lý, nên triết học không nhằm thỏa mãn nhu cầu của trí tuệ cho bằng nhu cầu thực tế của đời sống. Vì thế, triết học gắn liền với cuộc sống, đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn cuộc sống. Tại châu Á, các triết gia thường cũng là những hiền nhân sống đích thực triết lý của mình. Ảnh hưởng của triết học trên cuộc sống rất mạnh, triết học chi phối mọi lãnh vực sinh hoạt của đời sống. Chẳng hạn như tại châu Á, triết lý Kinh Dịch được áp dụng trong đạo học, y học, bốc phệ, địa lý, luân lý, luận lý, binh pháp, kinh tế, chính trị, các ngành khoa học, v.v... Không một triết lý nào ở Tây Phương có ảnh hưởng quan trọng đối với đời sống như vậy.

Triết Đông với Kitô giáo

So sánh những đặc tính của triết học Đông Phương và Tây Phương, ta thấy triết học Đông Phương phù hợp với sứ điệp Kitô giáo hơn. Trước hết, Kitô giáo nguyên thủy xuất phát từ Đông Phương, từ trong bối cảnh văn hóa Đông Phương. Rất tiếc về sau Kitô giáo đã bị Âu hóa và dường như đã đánh mất bản sắc Á châu của mình. Kitô giáo đã trở thành một tôn giáo nặng tính chất Tây Phương: hầu hết các ý niệm thần học dùng để giải thích Kitô giáo đều là những ý niệm triết lý của Tây Phương.

Việc đưa Kitô giáo trở về với triết lý Đông Phương, dùng những ý niệm của triết lý Đông Phương để giải thích cho người Đông Phương là một việc làm chính đáng và thích hợp. Rất có thể có nhiều kết luận quan trọng của thần học Tây Phương chỉ là cách hiểu hay giải thích mặc khải theo não trạng, khuynh hướng và văn hóa của người Tây Phương. Vì thế, để dễ dàng thích ứng và hội nhập văn hóa nơi những dân tộc Á châu, chúng ta cần phải phân biệt những yếu tố nào thuộc sứ điệp hay mặc khải không thể thay đổi và những yếu tố nào thuộc văn hóa có thể thay đổi.

Cũng như các tôn giáo lớn khác tại châu Á, Kitô giáo là một tôn giáo để sống hơn là để biết, và triết lý Đông Phương cũng nhắm để sống chứ không phải để thỏa mãn nhu cầu lý trí. Còn triết lý Tây Phương nhắm thỏa mãn trí tuệ hơn để sống, nên thần học Tây Phương cũng chịu ảnh hưởng này. Nhiều điều được xác định một cách dứt khoát và long trọng đến nỗi sẵn sàng chấp nhận sự chia rẽ trong nội bộ Giáo Hội nhưng những xác định ấy không phải để sống cho bằng để xác định quan điểm.

Kitô giáo chủ trương quên mình, «hủy mình» (kenosis), kết hiệp và hòa mình với Tuyệt Đối và cả với những gì tương đối (21), thì triết lý Đông Phương cũng chủ trương «vô vi» (22), «vô kỷ, vô công, vô danh» (23), «vô ngã» hay «phá chấp ngã» (24), v.v... để phá những ngăn trở cho sự kết hiệp và hòa mình với tha thể. Những chủ trương ấy sẽ trở nên dễ dàng thực hiện khi người ta nhận ra rằng mình và tha thể chỉ là một, hay «vũ trụ vạn vật đồng nhất thể» (25).

Phần chú thích

(1) Người ta đã nhạo báng lối suy tư trừu tượng quá khích đó như sau: Các triết gia Hy Lạp đã ra lệnh cho vạn vật: «Hỡi thiên nhiên, đây là một số qui luật mà ta đặt ra cho mi, mi phải tuân theo cho nghiêm chỉnh». Thái độ của các nhà khoa học gia khác hẳn. Họ nói: «Chúng tôi đã nghiên cứu và phát hiện những chuyển động của thiên nhiên, và đây là những điều chúng tôi đã khám phá được. Những điều này theo như chúng tôi đã quan sát từ trước tới nay, là những định luật của thiên nhiên».

(2) Thực ra, triết lý Hy Lạp vẫn có những khuynh hướng vũ trụ quan động, chẳng hạn Heraclitus (576-480 AD) chủ trương vũ trụ biến dịch và sự biến dịch ấy nằm ngay trong yếu tính của mọi hữu thể. Do đó, tất cả đều biến đổi, đều bất ổn. Ông nói: «Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông» để diễn tả sự biến chuyển không ngừng của vạn vật. Ông chủ trương «hữu thể là nhiều» vì ông thấy có nhiều hữu thể khác nhau ngay trước mắt. Nhưng chủ trương của ông đã bị chủ trương của Parmenides (540-450 AD) thắng thế. Ông này chủ trương «hữu thể là một». Và từ đó, ông suy lý ra rằng vũ trụ thì vĩnh cửu, duy nhất, liên tục và bất động. Ông cho rằng tất cả mọi biến đổi ta thấy được chỉ là biểu kiến, không có thực, do giác quan đánh lừa ta, vì theo lý trí thuần lý thì hữu thể chỉ có thể là một, vì khác với hữu thể là phi hữu, mà phi hữu thì không thể hiện hữu. Làm sao ông có thể suy nghĩ khác được khi ông cho rằng nguyên lý đồng nhất là tuyệt đối: «Hữu thể thì có, phi hữu thì không có»? Còn Heraclitus thì không chấp nhận nguyên lý đồng nhất, ông tuyên bố: «Vật nào cũng vừa là chính nó vừa không phải là chính nó». Ông đưa ra ý niệm về sự biến dịch và trở nên để giải thích về hữu thể. Ý niệm này cho rằng «hữu thể là phi hữu». Nhưng không may, triết lý của ông đã không có đất dụng võ giữa một thế giới Hy Lạp mà ai cũng coi trọng lý trí và khinh thường thực tế (là những gì giác quan nhận thức được).

(3) Thực ra, trong thực tế, chẳng có ai cho rằng vũ trụ là bất động và thực tại là đơn diện cả, cho dù là những triết gia cực đoan nhất của Tây Phương. Nhưng những nguyên lý mà người Tây Phương gọi là «nguyên lý của lý trí» lại chỉ có thể đúng trong một vũ trụ bất động và đơn diện mà thôi.

(4) Mãi tới thế kỷ 18-19, các triết gia Tây Phương như Hegel (1770-1831), Renouvrier (1815-1903)… mới đặt lại vấn đề vũ trụ quan tĩnh của Tây Phương, và đưa ra một vũ trụ quan động. Vì thế, vũ trụ quan của triết lý Tây Phương hiện đại không còn tĩnh như xưa, mà rất là động.

(5) Đương nhiên, trong những kết quả đó, không phải kết quả nào cũng đều do quan sát hay kiểm chứng được, nhất là khi đối tượng là những thực tại siêu việt. Đối với những thực tại ấy, cổ nhân đã suy tư theo trực quan hay nội quan, và căn cứ trên những hiểu biết chắc chắn đã có. Chẳng hạn như khi cổ nhân xác định: «Vô Cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái» (Kinh Dịch), hay «Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh Vạn vật» (Lão Tử)…

(6) Theo Heraclitus, «L’être est le non-être» (Hữu thể là phi hữu).

(7) Một minh họa giúp ta dễ hiểu sự việc đấu tranh với nhau để cùng tồn tại, để bổ túc lẫn nhau, đó là chuyện con diều và sợi giây. Con diều và sợi giây cùng bay lượn trên trời, đùa giỡn với gió một cách thanh thản vui thú. Nhưng con diều bỗng cảm thấy mình không được tự do vì bị sợi giây ràng buộc. Nó muốn bay cao lên nữa, bay xa hơn nữa, nhưng bị sợi giây cản lại. Vì thế, nó rất bực mình vì sợi giây. Nó nghĩ nếu nó được giải phóng khỏi sợi giây, nó sẽ tha hồ bay cao bay xa, và nó rất đau khổ vì sợi giây ràng buộc. Còn sợi giây thì cũng bực mình không kém vì con diều. Nó luôn luôn bị con diều làm căng thẳng, nhiều khi như muốn đứt. Nó không được tự do mà hoàn toàn bị lệ thuộc vào con diều: con diều bay đi đâu thì lôi kéo nó đi tới đấy, bất chấp nó có muốn hay không. Nó nghĩ nếu nó được giải phóng khỏi con diều, nó sẽ tha hồ bay lơ lửng giữa trời, tự do qua lại, không còn bị lôi kéo, căng thẳng nữa. Thế là «hai đứa» quyết định chia tay, hy vọng rời nhau cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng thực tế thật không ngờ: vừa rời nhau thì cả hai cùng rơi xuống đất.

(8) Trong vũ trụ, có nguyên lý «Đồng nhi dị» (giống mà khác), nghĩa là không có hai vật nào hoàn toàn giống nhau, tuy dù có thể có vô số những điểm giống nhau, nhưng thế nào chúng cũng phải có những điểm khác nhau. Hai vật cùng loại cũng được sản xuất trong một nhà máy hiện đại, xem ra không có điểm nào khác nhau, nhưng không thể nào không có điểm khác nhau. Trước hết, chúng có thể khác nhau về thời điểm sản xuất, hay không gian sản xuất, dù chỉ trước hay sau nhau một giây hay cách xa nhau một mét, số phận chúng cũng khác nhau, được dùng ở hai nơi khác nhau, thời điểm hủy diệt cũng khác nhau, v.v…

(9) Một vài thí dụ làm sáng tỏ vấn đề hơn: Thế giới hiện tại gồm 4 tỉ người, trong đó ắt phải có người khôn người dại. Nhưng giả như ta tuyển được 10 người khôn nhất thế giới và cho họ ở chung với nhau, thì trong 10 người đó ắt nhiên phải có kẻ khôn nhiều hơn người khôn ít hơn. Và trong nội bộ 10 người đó, kẻ khôn nhiều thì gọi là khôn, và kẻ khôn ít thì gọi là dại. Vậy là trong 10 người khôn nhất thế giới ấy vẫn có kẻ khôn người dại. Làm sao có thể không có sự dị biệt giữa 10 người đó?

Hay trong một phòng đầy ánh sáng, chỗ nào cũng sáng. Người ta tưởng sáng như vậy là không có bóng tối. Nhưng nếu ở một góc phòng nào đó, ta để một ngọn đèn sáng gấp nhiều lần ánh sáng đã có và cô lập lại góc phòng đó, để ánh sáng tại đó không lọt ra ngoài. Lập tức, ta thấy căn phòng có chỗ sáng hơn, có chỗ tối hơn.

(10) Nguyên lý bất mâu thuẫn có thể được phát biểu nhiều cách: «Một mệnh đề không thể vừa đúng lại vừa sai», hay: «Hai mệnh đề mâu thuẫn nhau không thể cùng đúng một lượt», hay: «Một vật không thể vừa là nó vừa không là nó được». Chữ «mâu thuẫn» do Mao Trạch Đông dùng đầu tiên, được gợi ý từ câu chuyện của Mạnh Tử: Một người bán mâu và thuẫn quảng cáo về mâu của mình: «Mâu này không có thứ gì mà không chọc thủng được», rồi lại quảng cáo về thuẫn của mình: «Thuẫn này không có thứ gì có thể chọc thủng được». Như vậy là hai lời quảng cáo đó mâu thuẫn nhau.

(11) Nguyên lý triệt tam được phát biểu: «Một là vật này là A, hai là vật này không là A, không thể có trường hợp thứ ba». Không thể có trường hợp thứ ba nghĩa là vật ấy không thể vừa là A, vừa không là A được.

(12) Đối với một tờ giấy mặt trắng mặt đen (hai mặt), hai câu «nó trắng» và «nó đen» cùng đúng một lượt.

(13) Ở đây chữ chân lý có thể có hai nghĩa: Chân Lý (viết bằng chữ hoa) và chân lý (viết chữ thường). Nếu hiểu Chân Lý (viết bằng chữ hoa) thì câu trên đúng, nhưng nếu hiểu chân lý (viết chữ thường), thì câu trên nghĩa là: trong nhiều câu phát biểu khác nhau về một thực tại, chỉ có một câu đúng thôi. Theo nhận thức luận Tây Phương, cả hai cách hiểu đều đúng.

(14) Trong lịch sử toán học, ta thấy có ba nền hình học dựa trên ba tiên đề mâu thuẫn nhau:

 Hình học Euclide dựa trên tiên đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ được một đường thẳng duy nhất song song với đường thẳng đã cho.

 Hình học Riemann dựa trên tiên đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta không thể kẻ được một đường thẳng nào song song với đường thẳng đã cho.

 Hình học Lobatchevsky dựa trên tiên đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta có thể kẻ được vô số những đường thẳng phân biệt song song với đường thẳng đã cho.

Theo Euclide, phải kẻ được một đường thẳng song song, còn theo Riemann thì chẳng kẻ được đường thẳng nào  mâu thuẫn. Theo Euclide, không thể kẻ được đường thẳng thứ hai, còn theo Lobatchevsky thì kẻ được vô số đường thẳng thứ hai. Giữa Riemann và Lobatchevsky lại càng mâu thuẫn nhiều hơn. Trước thực tế đó, triết học buộc phải đặt lại vấn đề về nguyên lý bất mâu thuẫn của nhận thức luận cũ.

Nếu cứ căn cứ trên nguyên lý bất mâu thuẫn thì chắc chắn chỉ có một nền hình học đúng mà thôi. Nhưng trong thực tế, cả ba đều được ứng dụng rất đúng trong ba không gian khác nhau. Hình học Euclide áp dụng đúng trong thế giới thường ngày của chúng ta. Hình học Riemann trong ngành vi vật lý, nghiên cứu thế giới của các nguyên tử và phân tử. Hình học Lobatchevsky trong ngành vật lý không gian của các thiên thể vũ trụ. Ba thế giới đó là ba mặt của một thực tại duy nhất là không gian. Nếu ta quan niệm không gian chỉ là một thực tại đơn diện, ắt không thể giải thích được những mâu thuẫn cùng đúng trên.

(15) Nếu sáu mặt đó là sáu màu khác nhau, đương nhiên nếu mặt này đỏ thì năm mặt kia không đỏ. Đỏ và không đỏ mâu thuẫn nhau. Nếu sáu người nhìn sáu mặt khác nhau ấy, người nào cũng chỉ nhìn thấy có một mặt rồi kết luận rằng cả cái vật ấy là màu mình nhìn thấy, đồng thời cho rằng nếu mình đã nhìn đúng ắt những người nhìn khác mình phải sai, thì sáu người đó sẽ cãi lộn nhau giống như những ông mù rờ voi trong du ngôn của Đức Phật. Nguyên nhân xảy ra cái cảnh bi đát cãi lộn nhau là vì sáu người đó ai cũng tưởng vật muốn nhìn thấy chỉ có một mặt duy nhất là mặt mình nhìn thấy, nên có ai quả quyết khác với mình thì làm sao mình chấp nhận được? Nhân loại hiện nay đang chiến tranh thảm sát nhau không phải chỉ để tranh dành quyền lợi, mà còn để bảo vệ chân lý. Bảo vệ cái chân lý mà chính mình đã chứng nghiệm, đã xác tín, ngỡ rằng đó là chân lý duy nhất. Ngờ đâu đó chỉ là «chân lý của mình», không biết rằng người khác cũng có «chân lý của họ». Các tôn giáo, các ý thức hệ, các bè phái chính trị… nhóm nào cũng tự cho rằng chỉ có lập trường của mình là đúng, và ai cũng sẵn sàng đổ máu của mình cũng như máu của phe đối lập để bảo vệ «chân lý của mình». Ai cũng coi bảo vệ chân lý là một lý tưởng cao đẹp!

(16) Nguyên lý bất mâu thuẫn vẫn đúng và phải chấp nhận khi áp dụng trên cùng một mặt của thực tại. Nhưng không thể áp dụng trên những mặt khác nhau của thực tại. Nghĩa là nguyên lý mâu thuẫn không phải là sai, mà chỉ có thể áp dụng một cách có giới hạn, trong những trường hợp có thể coi thực tại chỉ có một mặt. Tương tự như khi lý luận toán học, người ta có thể coi một mặt ao hay mặt hồ là một mặt phẳng, một con đường dài chừng 5 km là một đường thẳng, để áp dụng những tính chất của đường thẳng và mặt phẳng vào chúng, nhưng không thể coi mặt biển Thái Bình Dương là một mặt phẳng hay đường đi của một con tàu trên đó là một đường thẳng, cho dù nó có cố hết sức để đi thẳng. Cũng vậy, người ta có thể coi thực tại nhỏ bé trong một tam đoạn luận là đơn diện và áp dụng nguyên lý mâu thuẫn để lý luận mà vẫn hợp pháp, nhưng không thể coi mọi thực tại đều đơn diện để áp dụng nguyên lý mâu thuẫn hầu luôn luôn phủ nhận những kết luận mâu thuẫn với những kết luận mà mình đã coi là đúng. Khi ta nói: anh A tốt, vật B tốt, thì luôn luôn người ta nói tới một số mặt nào đó của anh A hay vật B là tốt, và phải ngầm hiểu có những người nói ngược lại mà vẫn đúng, vì anh A hay vật B có thể có những mặt khác không tốt, hay cũng những mặt đó nhưng ở một thời điểm khác là không tốt.

(17) Một danh nhân Đông Phương nói rằng nếu ta cho lời nói này là đúng, thì lời nói ngược lại cũng đúng không kém.

(18) Theo quan niệm chung của nhiều tôn giáo Đông Phương, Thực Tại Tối Hậu và vũ trụ vạn vật chỉ là một thực tại duy nhất có hai mặt: bản thể và hiện tượng (tương tự như một tờ giấy có hai mặt không thể tách rời nhau, hai mặt tuy khác nhau nhưng chỉ là một thực tại duy nhất là tờ giấy). Bản thể tức Thực Tại Tối Hậu thì tuyệt đối, bất biến, vô cùng vô hạn, không sinh không diệt, tự hữu, là nền tảng cho vũ trụ vạn vật. Đó là những thuộc tính rất giống với những thuộc tính căn bản của Thiên Chúa trong Kitô giáo). Còn hiện tượng tức vũ trụ hay thế giới, vạn vật, thì tương đối, thay đổi liên tục, hữu hạn, nay còn mai mất, lệ thuộc luật nhân quả (đã hiện hữu thì phải có nguyên nhân)… Bản thể không phải là nguyên nhân sinh ra hiện tượng, mà là nền tảng cho hiện tượng. Bất kỳ một hiện tượng nào cũng đều phải có một nguyên nhân là một hiện tượng khác. Bản thể và hiện tượng khác nhau nhưng là một, tương tự như hai mặt của một tờ giấy khác nhau (mặt trắng mặt đen chẳng hạn) nhưng hai mặt chỉ là một. Cách hiểu này của Đông Phương có thể giải thích được sự mâu thuẫn trong hai mệnh đề căn bản của triết học hay hữu thể học Hy Lạp: «Hữu thể là một» (L’Être est Un) của Parménide, và «Hữu thể là nhiều» (L’Être est multiple) của Héraclite: là một trong bản thể và là nhiều trong hiện tượng. Cách giải quyết này (một thực tại có hai mặt) xem ra tự nhiên hơn cách của Aristote (dùng thuyết suy loại).

(19) Từ thế kỷ 19 trở về trước.

(20) Vì khám phá tuyên bố trái đất quay chung quanh mặt trời  điều này đi ngược lại lối suy nghĩ của triết học và tôn giáo  nên linh mục Bruno bị Pháp Đình tôn giáo xử thiêu, thầy dòng Galilée bị xử khổ sai chung thân (thay vì xử thiêu nhờ rút lại lời tuyên bố trên trước tòa án). Mendel khám phá ra định luật về lai giống và chủ trương áp dụng để cải tiến giống bị người đương thời cho là «phản lại thiên nhiên» và ông phải sống một cuộc đời cô đơn và cơ cực.

(21) Tức tha nhân, vũ trụ vạn vật, thiên nhiên.

(22) Chủ trương của Lão Tử. «Vô Vi» là không làm gì cả theo ý muốn của bản ngã, của «cái tôi» ích kỷ của mình, nếu có làm thì luôn luôn làm theo đường lối tự nhiên của «Đạo», để «Đạo» hành động nơi mình.

(23) Chủ trương của Trang Tử. «Vô kỷ, vô công, vô danh» là không vì mình, làm không cậy công, không vì danh của mình.

(24) Chủ trương của Phật. «Vô ngã» hay «phá chấp ngã» là coi như không có mình, hay sâu xa hơn là nhận ra «cái tôi» của mình là giả tạm so với thực tại thâm sâu hơn làm nền tảng cho mình là Chân Như Phật tánh hay Thực Tại Tối Hậu.

(25) Trong triết lý Đông Phương, cái nhìn cho rằng mình và tha thể chỉ là một, hay «vũ trụ vạn vật đồng nhất thể» được coi là cái nhìn của những người trí tuệ giác ngộ, khác với cái nhìn của người thường chỉ thấy vạn sự đều là sai biệt.


NGUYỄN CHÍNH KẾT